Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
107476

Lịch sử xã Nam Giang

Ngày 28/01/2021 18:37:40

                LỊCH SỬ XÃ NAM GIANG

Nam Giang là một xã đồng bằng nằm ở phía Đông - Nam của huyện Thọ Xuân, có đường tỉnh lộ chạy qua giữa xã, là cửa ngõ của huyện Thọ Xuân, là đầu mối giao thông với các huyện phía Tây và vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh Thanh Hóa; có diện tích tự nhiên 543,8 hécta, trong đó diện tích đất trồng trọt là 318 hécta, còn lại là các loại đất khác... Dân số hiện nay 8.204 người/1.890 hộ, được hình thành và phát triển trên cơ sở 7 làng cổ của 3 tổng Nam Dương, Bất Náo, Thượng Cốc, đến nay đã bảy, tám trăm năm. Vùng đất Nam Giang xưa còn được nhà nước phong kiến chọn làm nơi đặt văn chỉ, võ chỉ của huyện Lôi Dương cùng nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn liền với sự phát triển của quê hương như: đình làng Phong Lạc, đình làng Phúc Trạch, đình làng Phúc Như… và đặc biệt là điện Càn Long nơi thờ vua Lê Thần Tông, vua Lê Huyền Tông và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu.

Dưới chế độ thực dân phong kiến, cùng với những hủ tục lạc hậu đẩy người dân đến cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đời sống ngày càng bần cùng hóa.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trên quê hương, đất nước. Từ đây, nhân dân Nam Giang phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ mới với cương vị của người dân một nước độc lập, tự do và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày 21 tháng 8 năm 1953, xã Thọ Long được chia làm 3 xã (Nam Giang, Bắc Lương và Tây Hồ) - Xã Nam Giang chính thức được thành lập, theo đó Chi bộ Đảng xã Thọ Long cũng được chia tách làm 3 chi bộ, ngày 25 tháng 8 năm 1953, Chi bộ Đảng xã Nam Giang cũng được thành lập trên cơ sở các tổ đảng Phúc Như, Phúc Thượng, Phú Gia, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc.

Là miền quê có bề dày về lịch sử văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, xã Nam Giang đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến của mình. Trong chiến đấu bảo vệ địa phương, quân và dân Nam Giang đã độc lập bắn rơi 1 máy bay giặc của Mỹ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, xã Nam Giang có gần 900 thanh niên tham gia quân đội, hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến… Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu có 118 người đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, 241 thương bệnh binh và người bị nhiễm chất độc hóa học, 7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 1 anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều người đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, nhiều người được tặng Huân, Huy chương và Bằng khen, Giấy khen các loại, gần 60 người trưởng thành trong quân đội, công an được phong quân hàm từ Thiếu tá đến Đại tá…

Ghi nhận những đóng góp của Đảng bộ và nhân dân Nam Giang trong hai cuộc kháng chiến, Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu “Đơn vị anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho nhân dân và Lực lượng vũ trang Nhân dân xã Nam Giang.

Bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ xã, thực hiện cơ chế thị trường, kinh tế địa phương không ngừng tăng trưởng, các công trình văn hóa phúc lợi cũng lần lượt được xây dựng như:: điện, đường, trường, trạm, nhà văn các thôn, 85 đến 90% nhân dân sản xuất bằng cơ giới hóa. Công tác quốc phòng và an ninh được đảm bảo, các tổ chức chính trị hoạt động đều và mạnh là mũi nhọn của các phong trào ở cơ sở. Đặc biệt là giai đoạn từ 2010 đến nay, Ban chấp hành Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế từng bước có hiệu quả, tiêu biểu là dự án phát triển kinh tế đồng Ngâu. Toàn xã hiện nay đã có hơn 20 trang trại (trong đó có 11 trang trại tập trung ở đồng Ngâu), 20 doanh nghiệp và hơn 500 hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ đang hoạt động có hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm con em trong xã và có nhiều đóng góp xây dựng quê hương. Năm 2016, Nam Giang là xã đứng tốp đầu trong huyện hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới và đang tiếp tục phấn đấu hoàn thành xã nông thôn mới nâng cao trước năm 2020.

Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/HU, ngày 25/3/2007 của Ban Thường vụ Huyện ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác sưu tầm, biên soạn lịch sử”; Công văn số 103-CV/HU, ngày 07/12/2015 của Huyện ủy Thọ Xuân về việc nâng cao chất lượng nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống địa phương; Ban chấp hành Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã chủ trương sưu tầm, biên soạn và xuất bản cuốn sách “Lịch sử xã Nam Giang”, nhằm ghi lại quá trình hình thành và phát triển của quê hương qua các thời kỳ lịch sử.

Cuốn sách gồm 6 chương nội dung và phần kết luận:

- Chương I: Điều kiện tự nhiên và quá trình hình thành làng xã.

- Chương II: Vùng đất Nam Giang những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945

- Chương III: Chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt, tiến tới thành lập xã Nam Giang, cùng cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1945 - 1954)

- Chương IV: Xã Nam Giang trong thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 - 1975)

- Chương V: Xã Nam Giang trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1995)

- Chương VI: Xã Nam Giang trong thời kỳ Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới (1996 - 2018).

Trong từng chương, mục đã phản ánh đậm nét quá trình hình thành, phát triển của mảnh đất và con người Nam Giang trong từng thời kỳ của lịch sử, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Ban chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo nhân dân từng bước tiến hành sự nghiệp đổi mới của Đảng đạt được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh…

Cuốn “Lịch sử xã Nam Giang” được hoàn thành và ra mắt bạn đọc, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Nam Giang xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân, các đồng chí nguyên là cán bộ chủ chốt xã Nam Giang qua các thời kỳ, các đồng chí Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Hiệu trưởng các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở, Trưởng Trạm y tế xã… đã cung cấp tư liệu, góp phần thành công của cuốn sách. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh và sự tàn phá của thời gian, nguồn tư liệu đã bị mai một, các nhân chứng trước và trong chiến tranh phần lớn đã qua đời, người còn thì đã cao tuổi không còn minh mẫn, cùng với sự hạn chế về thời gian, về vật chất và nhiều lý do khách quan khác, cuốn sách sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự cảm thông và góp ý chân thành để lần tái bản nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh phong phú hơn.

 


Chương I

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ QUÁ TRÌNH

HÌNH THÀNH LÀNG XÃ

 

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Xã Nam Giang là một trong 41 xã, thị trấn của huyện Thọ Xuân. Phía Bắc giáp xã Bắc Lương; phía Nam giáp xã Xuân Sơn, Thọ Lộc; phía Tây giáp xã Tây Hồ; phía Đông giáp xã Xuân Phong, Thọ Nguyên.

Diện tích tự nhiên 543,8 ha;

Dân số: 8.204 người/1.890 hộ

Đất đai của xã nằm ở phía Đông - Nam của huyện Thọ Xuân, một vùng trù mật, cận thị cận giang. Nam Giang là điển hình của một vùng đồng bằng, trung du: Không có đồi núi, không có ao hồ lớn, có đường tỉnh lộ chạy qua giữa xã, là đầu mối giao thông với miền núi và vùng đồng bằng phía Đông của Thanh Hóa. Từ miền ngược về miền xuôi, từ miền xuôi lên vùng đồi núi phía Tây đều phải qua Nam Giang. Từ đây đi về phía Đông 32 km là thành phố Thanh Hóa, đi tiếp 16 km là Sầm Sơn. Từ thành phố Thanh Hóa ra Bắc hay vào Nam, đi tầu hỏa hoặc ô tô vào Nghệ An hay ra Hà Nội chưa đến 3 giờ đồng hồ. Từ Nam Giang đi về phía Tây 3 km là đến thị trấn Thọ Xuân và theo đường 47 lên khu Di tích Lam Kinh chỉ 20 km. Từ Mục Sơn ra Bắc hay vào Nam có đường Hồ Chí Minh ra Hòa Bình, Hà Nội hay vào Nghệ An, Hà Tĩnh, qua Tây Nguyên đều có đường nhựa, đi lại dễ dàng nhanh chóng. Ngày xưa người đi thuyền chỉ 3km là đến bờ sông Chu (Lương Giang), rồi từ đây qua đêm trên thuyền là đến bến Hàm Rồng đem theo cau, chè, gạo... cho miền xuôi rồi từ đây đem về mắm, muối, cá cho chợ Neo, cho cả dân vùng Neo, Vực, Láng.

Từ Nam Giang vào Thành phố Hồ Chí Minh hay ra nước ngoài có đường hàng không. Sân bay Sao Vàng (Cảng hàng không Thọ Xuân) chỉ cách Nam Giang hơn 10 km. Từ Nam Giang lên Bái Thượng cũng chỉ 20 km rồi đi lên Lang Chánh, Bá Thước, Quan Sơn chỉ một buổi sáng là lên đến đất của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Nam Giang cũng là một trong các xã được hưởng lợi từ đập thủy nông Bái Thượng.

Trên dòng sông Chu, người Pháp đã xây dựng đập thủy nông Bái Thượng. Đây là công trình thủy lợi lớn nhất xứ Đông Dương thời bấy giờ. Công trình này phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa và vơ vét thóc gạo của thực dân Pháp.

Sau 7 năm thi công 28/3/1920 - 01/1926), công trình đập Bái Thượng và toàn bộ hệ thống kênh, mương đã được hoàn thành. Công trình chính thức được bàn giao cho Sở Thủy nông vào ngày 27/8/1926 để hoạt động từ đây. Sau khi hoạt động công trình thủy nông sông Chu (đập Bái Thượng) đã đảm bảo tưới nước cho trên 50.000 ha đất canh tác ở trong tỉnh (trong đó có Thọ Xuân và Nam Giang).

Là vùng tiếp giáp giữa hai nền khí hậu của đồng bằng Bắc Bộ và Khu 4 cũ, nối tiếp đồng bằng với miền núi, nên trong mặt bằng chung, khí hậu của Nam Giang vẫn là nền khí hậu của khu vực nhiệt đới gió mùa. Ngoài những yếu tố chung, khí hậu ở đây vẫn có những yếu tố khác biệt, đặc thù riêng vì nằm ngay bờ sông Chu nên khí hậu có phần thoáng mát hơn. Theo số liệu điều tra khảo sát của các cơ quan khí tượng thủy văn trong tỉnh, trong huyện thì các số liệu về khí hậu Nam Giang như sau:

Nhiệt độ bình quân năm 23.40C, mùa hè nóng, mùa đông lạnh, những ngày nóng diễn ra trong tháng 6, ngày nóng nhất lên tới 390C, ngày lạnh nhất vào cuối tháng 12 có những năm dưới 90C. Mùa hè trung bình vào khoảng 28 - 300C, mùa đông trung bình 250C, năm cao nhất 270C. Tháng 12 năm 2007 và tháng 1 năm 2008 nhiệt độ xuống 70C.

Độ ẩm trung bình 86%, cao nhất 96% và thấp nhất 67%.

Hằng năm có hai mùa thay đổi.

- Mùa đông có gió mùa Đông Bắc thường rét khô và hanh thổi từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau.

- Mùa hè có gió mùa Đông Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8, đưa hơi nước từ biển vào làm khí hậu mát mẻ và có mưa. Mùa hè còn có gió Tây Nam (gió Lào) thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 7 gây nóng và khô hạn, thời gian gió Tây 12 đến 15 ngày, chia ra nhiều đợt, trung bình mỗi đợt từ 2 đến 3 ngày, đợt dài 5 đến 6 ngày (gió này gây ảnh hưởng đến lúa xuân, ngô xuân gieo trồng muộn).

Hướng gió thịnh hành là Đông và Đông Nam, tốc độ trung bình 1,3m/s, lớn nhất 20m/s.

Từ tháng 7 đến tháng 10 thường có bão đổ bộ từ biển vào, tốc độ gió thường ở cấp 6 - 7, cá biệt có trận cấp 9 - 10 kéo theo mưa to, gây tác hại đến cây trồng và các công trình kiến trúc.

Lượng mưa trung bình trên dưới 1.860mm, năm cao nhất 2.947mm (1925), năm thấp nhất 1.459 (1936), tháng mưa cao nhất là tháng 9, có những năm đến 15 ngày mưa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa chính chiếm 85% lượng mưa cả năm, tập trung vào 3 tháng (8, 9, 10), lượng mưa trong 3 tháng này chiếm 50 - 60% lượng mưa cả năm, đây là giai đoạn thường gây ra lũ lụt. Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa khô. Tổng lượng nước các tháng này khoảng 105 - 108mm, bằng 10 - 15% lượng mưa cả năm.

Lượng bốc hơi nước bình quân một năm là 707,5mm. Số ngày có sương mù trong năm từ 21 - 26 ngày, thường xuất hiện tập trung vào các tháng 10, 11 và tháng 12 có tác dụng tăng thêm độ ẩm không khí và mặt đất.

Với lượng mưa và nhiệt độ như vậy có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển cây lương thực, đặc biệt là cây lúa và rau màu.

Tiếng nói và âm tiết của người Nam Giang là tiếng nói và âm tiết điển hình của người Thọ Xuân, một số người phát âm chuẩn nhưng còn mang nặng dấu ấn phát âm của người Việt cổ.

Về hưu phát âm là viền hiu

Nước phát âm là nác...

Sau này do có quan hệ với nhiều người Bắc, nhiều người nhập cư nên tiếng nói của người Nam Giang đã lai dần, gần giống ngữ âm hiện đại.

Nam Giang là đất có truyền thống học hành thi cử, ngày xưa học trò học bằng chữ Hán, thứ chữ do các quan cai trị người Trung Quốc du nhập sang. Các văn bản nhà nước, sách vở, thư từ giao dịch đều bằng chữ Hán, cũng còn gọi là chữ Nho, chữ thánh hiền. Sau này, người Việt Nam theo mẫu tự chữ Hán rồi giản hoặc thêm nét, sáng lập ra thứ chữ mới gọi là chữ Nôm (thế kỷ thứ XVII). Chữ Nôm là chữ của người Việt. Người biết chữ Hán mới học được chứ Nôm. Người Trung Quốc dù giỏi chữ Hán cũng không đọc được chữ Nôm.

Ngày xưa cả làng góp tiền mời một cụ đồ (thường là người Nghệ An - đồ Nghệ). Cũng có nhà giàu có mời riêng thầy cho con cháu học. Học 10 năm thì thành tài (tục ngữ có câu “thập niên đăng hỏa” - 10 năm đèn sách). Mỗi phủ có một trường học. Phủ (huyện) Thọ Xuân mở trường năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị để dạy con em những gia đình khá giả. Trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến (1075 - 1919) Nam Giang có 6 người đậu Hương cống, Cử nhân làm quan tri huyện, huấn đạo. Có thể kể tên các vị đã thi đỗ Cử nhân và Hương cống ở xã Nam Giang như sau:

1. Phạm Tuấn, người xã Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, đỗ Cử nhân khoa thi Ất Mão đời vua Tự Đức (1855), làm quan trải qua các chức: Tri huyện Tiên Minh (Vân Đình - Sơn Tây, nay là Hà Nội), giáo thụ phủ Thọ Xuân. Ông người làng Kim Bảng, dòng dõi họ Lê (nay là Phạm Lê), hậu duệ của Tiến sĩ Lê Hiệu (Nghệ An) và vợ là Phạm Thị Hiền. Phạm Tuấn là lớp con cháu của Lê Trừng (con của Lê Hiệu) ra ở Quả Nhuệ để lo việc thờ cúng tổ tiên của Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu (em ruột của bà Hiền). Ra Thanh Hóa, ông Trừng lấy họ Phạm Lê. Ngày nay, con cháu của Phạm Trừng đông đúc. Theo gia phả của họ Lê (Nghệ An) thì Phạm Tuấn đã dẫn cả họ Phạm Lê (Nam Giang) vào Nghệ An thăm mồ mả, nhà thờ họ Lê.

Hiện nay, ở xã Xuân Phong còn lưu giữ tấm bia (đời vua Khải Định thứ 8 - 1923) ghi rõ Phạm Tuấn là cháu xa đời của Phạm Trừng. Văn bia cho biết, ông đậu Tú tài 7 khoa nhưng vẫn kiên trì học tập và đến khoa thi thứ 8 (1855) mới đậu Cử nhân.

2. Lê Đức Đôn: Người xã Quả Nhuệ, đậu Cử nhân đời Minh Mệnh (1830), làm quan Tri huyện.

3. Lê Huy Cung, người làng Quả Nhuệ, đậu Cử nhân đời Tự Đức (1867).

4. Lê Hữu Tuấn, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống (1702).

5. Lê Doanh Lập, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống (1714).

6. Lê Cảnh Huy, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống đời Lê.

Với đa số người dân, việc học chữ Hán không nhằm đào tạo các nhà khoa bảng mà cốt cho con em có ít chữ thánh hiền, biết làm các văn tự, khế ước, thờ cúng ông bà tổ tiên. Học để làm người có ít nhiều hiểu biết để đối nhân xử thế chứ không phải học để làm quan. Đến nay trong xã còn vài cụ cao niên có thể đọc được các văn bản Hán - Nôm. Việc học ngày xưa chưa thành nề nếp mà hình như chỉ những gia đình kinh tế khá giả mới đủ điều kiện cho con cái theo đòi bút nghiên. Làng, xã có văn chỉ thờ các vị tiên hiền, các nhà khoa bảng.

Khi việc học hành, thi cử bằng chữ Hán kết thúc (năm 1919) thì những lớp học chữ Nho vẫn tồn tại. Mục đích của việc học ở đây khác với việc học kiểu khoa cử để đào tạo quan lai mà chỉ nhằm mở mang dân trí, nên khi không còn thi cử Hán học, dân ta vẫn cho con em đi học. Có khác là các lớp học chữ Hán có mở thêm việc học chữ Quốc ngữ. Việc học chữ Quốc ngữ ở các lớp học cũng chỉ nhằm mục đích cho người học biết đọc, biết viết để đọc các giấy tờ của phủ, huyện gửi xuống. Người biết chữ viết giúp người không biết chữ đơn từ, khế ước. Các văn bản ấy phía dưới thường đề họ tên người viết, còn chủ nhân thì điểm chỉ. Người điểm chỉ dùng ngón tay cái bôi mực đen (thường là nhọ đèn dầu hoả) đặt lên văn bản.

Từ sau năm 1920, trong xã đã có một số người biết chữ Quốc ngữ (chữ đọc theo ký tự a, b, c ...). Đây là thứ chữ do các nhà truyền giáo sáng tạo để đọc kinh, sau được dùng phổ thông trở thành Quốc ngữ. Học Quốc ngữ dễ hơn học Hán Nôm, chỉ cần thuộc mặt 24 chữ cái rồi chép lại thành chữ, thành câu.

Từ đây các văn bản của làng được dùng cả hai ngữ văn: Hán - Nôm và quốc ngữ và cũng từ đây chữ Nôm không còn là Quốc ngữ, nhưng các văn tự vẫn còn dùng. Ông Lý trưởng của làng khi làm văn bản trình quan phủ dùng cả hai loại văn tự, sau này chữ Quốc ngữ trở thành thứ văn tự chính thức. Lúc đầu các cụ đồ vừa dạy cho học trò chữ Hán, chứ Quốc ngữ và có khi cả chữ Pháp. Chữ Quốc ngữ là thứ chữ dễ học, dễ nhớ chỉ cần vài ba tháng người học có thể đọc thông viết thạo, làm thơ, viết văn.

Sau những năm 20 của thế kỷ XX, Thọ Xuân có trường Tiểu học chuyên dạy bằng chữ Quốc ngữ. Sau đó Nam Giang có trường sơ học dạy cho học sinh đến lớp đầu cấp. Trường mang tên là trường Phú Gia và tồn tại đến năm 1945 (năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám trường có 18 học sinh lớp 5, 15 học sinh lớp 4).

Ngày xưa mỗi làng có hội đồng chức dịch. Hội đồng chức dịch có:

- Lý trưởng: Phụ trách công việc chung của làng, giữ đồng triện (đồng triện của Lý trưởng hình chữ nhật). Giúp việc Lý trưởng có Phó lý.

- Hương bạ: Coi việc sổ sách, nhân khẩu, khai sinh, giá thú, tử tuất, thổ trạch. Khi có người chết chủ hộ phải khai báo với hương bạ. Hương bạ cũng có đồng triện hình bầu dục.

- Hương kiểm: Chịu trách nhiệm trật tự, an ninh, có đội tuần phiên, làng có điếm canh phòng ngày đêm nhất là những năm mất mùa, trộm cắp nhiều.

- Hương bản: Giữ quỹ và tài sản chung của làng.

- Hương mục: Trông coi đê điều, đồng ruộng.

Về sau có thêm:

- Hương dịch: Trông coi việc dọn dẹp đường xá.

- Hương thư: Coi việc giấy tờ, văn thư.

- Hương nông: Coi việc khuyến nông, mương máng, tưới tiêu.

II. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ

Những tư liệu lịch sử còn để lại khẳng định các làng Phúc Thượng, Phúc Hạ, Phúc Như, Phú Gia, Cao Phong thuộc tổng Nam Cai; Kim Bảng thuộc tổng Thượng Cốc; Phong Lạc thuộc tổng Bất Náo là những làng cổ được lập từ cuối đời Trần đến đời Lê.

- Làng Phúc Trạch Thượng (còn gọi là làng Phúc Thượng): Theo gia phả của một số dòng họ thì làng Phúc Trạch Thượng được thành lập đã gần 700 năm. Chuyện kể lại khi đi đánh giặc ở phía Nam trở về qua vùng đất này có bốn quân nhân, một người họ Đinh, một người họ Hoàng, một người họ Trần và một người họ Lưu. Khi đi qua vùng đất Cổ Lôi (Thọ Xuân ngày nay), thấy đất đai bằng phẳng, lại có dòng thủy trạch chảy qua, rất tiện lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và đánh bắt thủy sản. Bốn người bàn nhau xuất ngũ và đem gia quyến đến khai hoang lập ấp. Là một vùng đất hẻo lánh, xa chốn kinh thành, hội tụ đủ ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa nên mỗi người ở một vùng đất tiền thân của làng Hội Hiền (Tây Hồ), Phú Gia, Phúc Như và hai làng Phúc Trạch Hạ, Phúc Trạch Thượng (Nam Giang) ngày nay. Lúc đầu cả bốn làng đều có tên là làng Biên (bên dòng Thủy Trạch).

Đến đầu thời Lê, dân cư phát triển, để tiện cho việc quản lý hành chính, làng Biên được chia làm 4 làng đó là Hội Hiền (xã Tây Hồ), làng Phú Gia, làng Phúc Như và làng Biên Trạch Giang (sau chia thành 2 làng Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ).

- Làng Phúc Trạch Hạ được chia ra từ làng Phúc Trạch Thượng từ đời Minh Mệnh. Cả 2 làng đều thuộc tổng Bất Náo. Bất Náo là vùng đất có nhiều người đậu Cử nhân, Tiến sĩ nên được các đời xây dựng văn chỉ, võ chỉ của huyện Lôi Dương. Chợ Neo cũng là trung tâm giao lưu kinh tế, hàng hóa của cả tổng, lúc đầu chỉ là một đón nhỏ sau thành chợ Neo, thuộc địa phận làng Phúc Trạch Hạ, là một chợ lớn, trung tâm giao lưu hàng hóa (chủ yếu là nông, lâm, thủy sản giữa miền xuôi và miền núi xứ Thanh.

Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra ác liệt, đồng bào Liên khu 3 đã tản cư vào vùng tự do, Thọ Xuân là một điểm đến của đồng bào ngoài Bắc, nhiều gia đình đã chọn Nam Giang là điểm tập kết. Nhân dân trong xã đã nhường nhà cho bà con ở tạm, chính quyền đã cắt đất (chủ yếu là ở khu vực chợ Neo) tạo điều kiện cho bà con làm nhà ở và làm ăn, buôn bán hàng hóa… Từ đó đã hình thành một khu phố (phố Neo) và phố Neo đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của khu vực thời bấy giờ.

Hai làng Phúc Trạch có chung đình làng và thờ một Thành hoàng là Cao Sơn Đại vương. Cao Sơn tên thật là Cao Hiển, tự là Văn Trường, người Bảo Sơn, Trung Quốc, đỗ Tiến sĩ Cập đệ năm 24 tuổi, niên hiệu Tống Hy Ninh, làm quan chức Thừa tướng, Đại nguyên soái. Năm 72 tuổi cáo quan, đem gia đình sang Việt Nam. Vua nhà Lý nước ta sai ông sang trấn thủ hai trấn Thanh Hóa - Nghệ An. Ông thi hành chính sách chính trị khéo léo, bởi thế được người đời quý trọng. Năm ngoài 100 tuổi về núi Đại Liễu, huyện Đông Thành phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An, lập cho mình cung thờ rồi mất, chôn tại đó. Khi Lê Lợi đi đánh quân Minh, có vào đền thờ ngài cầu khấn, khi thắng giặc về tạ lễ và phong sắc “Đường cảnh Thành Hoàng Cao Sơn quốc chủ linh hiển Thượng đẳng phúc thần Đại vương”. Tuy làng Biên Trạch Giang chia làm hai làng nhưng vẫn thờ thành hoàng chung ở Đình Neo, cùng chung một phong tục tập quán, đoàn kết gắn bó như cùng chung một làng. Hằng năm vào ngày 9, ngày 10 tháng Giêng âm lịch, hai làng mở hội Kỳ Phúc, tưởng nhớ đến vị Thành hoàng, cầu mong mùa màng tốt tươi. Ngoài phần tế lễ còn có phần hội như rước kiệu, đánh đu, đánh cờ.

- Làng Phúc Như được hình thành vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, lúc đầu có tên là trang Xuân Đài, do một số dòng họ Lê Viết, Lê Sỹ, Phạm Duy đến khai hoang lập nghiệp. Tiếp đến họ Lê Văn, Lê Thế, Lê Đức người làng Phúc Tọa, Cao Phong đến nhập trang, lúc này mới có 20 gia đình. Đất rộng, người thưa, đất đại thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, họ Phùng Xuân, Nguyễn Văn, Đào Văn từ ngoài Bắc vào mua đất làm nhà, đem theo nghề dệt vải, bán hàng tấm, hàng sáo. Lúc này trang Xuân Đài đổi thành làng Cầu Tiên. Khi thực dân Pháp đào sông nông giang Bái Thượng, làng đổi thành làng Phúc Như và giữ tên đó cho đến ngày nay. Vào năm 1945, làng có thêm họ Vũ Đình gốc ngoài Bắc vào thị xã Thanh Hóa rồi lên Phúc Như nhập làng làm nghề nung vôi. Đến đây, làng Phúc Như có đủ ba thành phần: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.

- Làng Phong Lạc: Phong Lạc là vùng đất cổ. Thời Lý là địa phận của huyện Di Phong, Cư Phong; thời Trần thuộc huyện Cổ Lôi; thời Lê thuộc huyện Lôi Dương; thời Nguyễn thuộc tổng Bất Nạo, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa. Qua các thời kỳ lịch sử, Phong Lạc được gọi bằng các địa danh: Bài Khu Trại, Bài Tang Trại (làng Đềnh), Phong Lạc, Hợp tác xã bậc thấp Tân Tiến (03 thôn bên trước: Phong Cốc, Phong Thịnh, Phong Đình) và Tân Thành (3 thôn bên sau: Tân Phong, Tân Giang, Xóm Sở). Khi tháp nhập hai HTX Tân Tiến và Tân Thành đặt tên là HTX Thống Nhất, một thời gian sau đổi tên thành Hồng Lạc, khi tiến lên HTX bậc cao toàn xã thì gọi là khu III. Hiện nay làng Phong Lạc chia thành 2 thôn: Phong Lạc 1, nằm bên tả ngạn sông Nông giang, bao gồm các thôn: Phong Cốc, Phong Thịnh, Phong Đình (trước đây); Phong Lạc 2, nằm phía hữu ngạn sông Nông giang gồm các thôn: Tân Phong, Tân Giang và xóm tản cư gần âu Phong Lạc. Do địa thế và thiên nhiên ưu đãi, các bậc tiền nhân của làng đã chọn hướng Nam, lấy Na Sơn (núi Nưa) làm án tiền, sông Lương (sông Chu ngày nay) làm hậu chuẩn, chọn sông nhà Lê làm nguồn tụ thủy lập làng. “Đất lành chim đậu”, quá trình lập làng giữ nước, cư dân các nơi về quần tụ đem theo sắc thái văn hóa riêng của từng vùng quê Việt, tạo thành một bản sắc riêng của Phong Lạc được kết tinh, chắt lọc qua nhiều thế kỷ - một sắc thái của người Việt cổ vô cùng độc đáo. Từng gia đình trong làng vẫn giữ được phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên và thổ công, táo quân tại nhà, từng dòng họ có nhà thờ riêng để các bậc tiên hiền sau 5 đời trở về nhà thờ tổ. Cư dân Phong Lạc không đi theo tôn giáo nào nhưng chắt lọc được tín ngưỡng đa thần giáo. Đình làng thờ Thành hoàng; chùa thờ Phật; miếu thờ Thánh. Dấu ấn đa thần thời gian còn lưu lại ở các địa danh xứ đồng: “Đình Chùa”: (vị trí làng thời tiền sử) là địa điểm kiến tạo đình và chùa đầu tiên khi mới lập làng. “Cồn Nông”: đàn thế Thần Nông để cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; “Cồn Cáo”: đàn tế trời đất theo tiết xuân thu nhị kỳ để dân làng có thể giao hòa cùng trời đất. Hằng năm cứ vào ngày 23/9 Âm lịch - ngày mất của nhân thần Lê Đức Đạt, vị tướng của Nhà Lê được tôn vinh làm Thành Hoàng làng, dân làng tổ chức lễ hội tại đình làng, các thành phần chính của buổi lễ như: Chủ tế, Đông sướng, Hộ lễ... đều được chọn hết sức kỹ càng. Lễ vật đem dâng cúng ở đình làng phải được giám sát kỹ từ khâu chuẩn bị vật phẩm cho đến khi hoàn thiện đưa vào mâm lễ. Phần hội được tổ chức hết sức công phu từ trò diễn đến trò chơi dân gian.

Theo thần phả để lại, sau khi mất tại nơi làng lập ngôi đình, nhiều tháng con ngựa chiến của ngài Lê Đức Đạt cứ quanh quẩn bên phần mộ của chủ. Ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1534) con vật tiết tháo với chủ cũng kiệt sức và chết. Từ đó ngày 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm làng thường làm cỗ lớn để cúng tế ở đình làng.

Những tín ngưỡng văn hóa ấy nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh cầu mong cho con cháu các dòng họ trong làng đời đời hiếu thuận, có đủ sức mạnh và trí thông minh để nhìn xa, trông rộng, phát đạt, hiển vinh, tránh được tai ương, bệnh tật. Bởi lẽ đó, ngày nay đến Phong Lạc, bất cứ ai cũng dễ nhìn thấy sắc thái văn hóa riêng: Phong Lạc lịch lãm, chịu thương chịu khó, cần cù, giản dị, mộc mạc chân thành... và truyền thống yêu nước, thương nòi, sống có nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ những người sa cơ lỡ vận, nhưng cũng đầy quyết đoán trong công việc mưu sinh.

Về học hành khoa cử: Phong Lạc có nhiều người học hành đỗ đạt đại học, cao đẳng thoát ly làm việc trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, làng có Tiến sĩ Toán học Lê Huy Hoàng tốt nghiệp tại Đức, và có nhiều người đi ra làm ăn thành đạt đã có nhiều đóng góp về vật chất và tinh thần xây dựng quê hương.

- Làng Phú Gia: Làng Phú Gia cũng được thành lập một thời với làng Phúc Trạch và được tách ra vào đầu thời nhà Nguyễn. Người các nơi lần lượt đến khai hoang lập nghiệp ngày một đông như: họ Trịnh, họ Hoàng ở Yên Trường, họ Lê ở Bái Đô (Xuân Bái), họ Nguyễn ở Yên Đỗ (Hải Dương), họ Phùng ở Hà Tây (cũ).

Sau khi chia làng, làng Phú Gia có thêm các dòng họ khác đến lập nghiệp như: họ Lê Khắc ở Nam Hà, họ Đặng ở Khúc Thụy, họ Đoàn, họ Lê Trọng ở Hoằng Hóa, họ Cao ở Nam Hà, cùng về đây hội tụ sinh sống.

Trước Cách mạng Tháng Tám, làng Phú Gia mới có 16 hộ, đến năm 1948, làng có thêm dòng họ Lê Huy từ Hoằng Hóa tản cứ đến nhập làng. Lúc này làng đã có 17 hộ, 120 nhân khẩu. Năm 1958, khi thành lập Hợp tác xã nông nghiệp, một số dân ở làng Phúc Trạch chuyển về làng Phú Gia, từ đó làng lại có thêm các dòng họ: Họ Đào, họ Phạm Duy, họ Lê Ngọc, Lê Trọng, Lê Văn, họ Trần, Lê Khả, Nguyễn Văn, Nguyễn Duy, Lê Viết, Lê Nhật...

Là một vùng đất cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, lại do nhóm 4 quân nhân thời Trần khởi tổ lập làng, nên phong tục tập quán và tín ngưỡng như nhau. Làng Hội Hiền lập ông Đinh Thời Dĩnh làm Thành hoàng; làng Phú Gia lập ông họ Lưu làm Thành hoàng; hai làng Phúc Trạch và Phúc Như lập hai ông họ Trần và họ Hoàng làm Thành hoàng. Do sự biến đổi của xã hội, đến nay thần phả, sắc phong và di hiệu của vị Thành hoàng họ Lưu đã bị thất truyền.

Hằng năm, làng Phú Gia mở hội vào mồng chín và mồng mười tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm tế Thành hoàng, tế ông tổ các dòng họ, cầu mong cho con người khỏe mạnh, dân làng thanh bình, người yên vật thịnh, rước kiệu từ làng Phú Gia đến các làng Hội Hiền, Phúc Trạch, Phúc Như. Hội làng có đánh đu, cờ tướng, hát ca công. Theo truyền thuyết, 4 quân nhân thời Trần khi về khai hoang lập nghiệp ở làng Biên có kết nghĩa anh em, tôn ông Đinh Thời Dĩnh làm anh cả, ông họ Hoàng làm anh hai, ông họ Trần làm anh ba, và ông họ Lưu là em út. Vì thế mà bốn làng kết chạ giao hiếu với nhau, cùng giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, chống chọi với thiên nhiên, giặc giã, trộm cướp, xây dựng cuộc sống. Người làng Phú Gia có truyền thống đoàn kết, cần cù lao động, ham học hỏi, sống có đạo lý, nghĩa tình.

- Làng Cao Phong: Cư dân làng Cao Phong là người ngoài Bắc vào định cư từ đời Trần. Đầu thế kỷ XV, quân Minh sang xâm lược nước ta, tiêu diệt nhà Hồ, đặt ách thống trị hà khắc lên đất nước ta. Không chịu làm nô lệ, Lê Lợi và các chiến hữu chọn Lam Sơn là nơi tụ nghĩa. Hào kiệt bốn phương về tụ nghĩa dưới cờ của Bình Định vương Lê Lợi. Trong đoàn người ấy có một số người thuộc dòng họ Phạm Hữu, Phạm Duy từ xã Sơn Minh - huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam. Họ cùng gia đình đến sinh sống ở vùng đất chưa khai phá được bao nhiêu và khá màu mỡ này. Gia phả của các dòng họ để lại cho biết, những người dân Sơn Nam đầu tiên đến đây thấy cảnh quan tươi đẹp, thế đất kỳ vĩ tươi tốt có thể làm nơi an cư lạc nghiệp đời đời do có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nơi đây không xa mấy (16km) là đất chiến khu Lam Sơn, thuận lợi cho việc đi về. Từ Sơn Nam có thể đi theo đường thiên lý Bắc - Nam hoặc qua lối Nho Quan (Ninh Bình) vài ngày đường là có thể đến nơi ở mới. Nhờ đất tốt, khí hậu ôn hòa nên người từ các nơi tiếp tục kéo về đây lập nghiệp. Hiện nay làng có 15 dòng họ sinh sống.

Dưới triều Hậu Lê, làng có nhiều người thi đỗ làm quan. Họ Phan có 2 người là anh em ruột thi đỗ Hương Cống (Cử nhân). Người anh làm quan đến chức Tự Thừa Thiếu Khanh - Tham chính xứ Nghệ An và người em giữ chức Viên Ngoại Lang ở Bộ Hình - tước Đường Thái Nam. Hai ông không có con nối dòng, làng lập đền thờ và lập làm Thành hoàng của làng.

Đời Minh Mệnh (1820 - 1840), một người thanh niên của làng là ông Lê Đăng Khoa được phong là Bách Hộ Tướng quân. Thời Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương, làng có nhiều người tòng nghĩa đánh giặc. Lịch sử ghi tên tuổi của những người làng Cao Phong đã cầm súng chống Pháp ngay từ ngày chúng đặt chân lên đất Thanh Hóa như: Tú tài Phạm Duy Điển, đội Tiệm tên là Lê Đình Hùng... Các ông đã chiến đấu khắp vùng Thanh - Nghệ dưới quyền của Trần Xuân Soạn, Cầm Bá Thước, Phạm Bành, Hà Văn Mao.

Người Cao Phong phần lớn là dân di cư từ mọi miền đất nước đến, đặc biệt là dân vùng Sơn Nam nên đem theo tín ngưỡng, phong tục tập quán và lối sống của vùng châu thổ sông Hồng. Tháng Giêng, làng mở hội vào ngày 10 để tế Thần hoàng làng là Cao Sơn Đại vương Thượng đẳng Phúc thần và Lê Lam Phúc thần. Lê Lam là Thần của dân làng, người có công mở đất mở làng, còn Cao Sơn là vị thần hiển linh sống đến 103 tuổi, được dân tôn thờ, trải qua các thời đại Lê, Nguyễn đều có sắc phong. Hai vị quan lớn họ Phạm của làng có nhà thờ riêng, đến dịp làng mở hội đều được dân rước kiệu về đình để tế lễ phối hương. Cuộc rước được diễn ra từ sáng sớm tinh mơ. Đi đầu là kiệu và dàn bát âm, đi từ đình làng (nơi thờ Cao Sơn và Lê Lam) đến đền thờ 2 quan lớn, ra văn chỉ đến làng Đống Nãi. Đoàn rước ngày một nối dài do có người thập phương về dự. Khi trở về đình làng yên vị, cuộc tế bắt đầu. Mở đầu là bài Chúc văn của vị chủ mạnh ca ngợi công đức của các vị Thần hoàng, các quan lớn, các ông tổ của các dòng họ. Thiện nam, tín nữ của các làng trong vùng cũng đến dân hương, lễ bái, cầu cho quốc thái dân an. Song song với lễ là hội. Làng có trò chơi dân gian như đu quay, đánh vật, cờ tướng, hát đối. Có năm làng còn mời các phường bội về diễn các tích trò cổ. Đình làng được làm từ thời Nguyễn trước khi Pháp xâm lược nước ta, do dân làng góp công, góp của được xây dựng bằng gỗ lim có đường kính từ 35 đến 40 cm. Người trong làng cao tuổi góp cột cái, người ít tuổi hơn góp cột con, ít tuổi hơn nữa góp đòn tay, rui, mè. Ông Lê Viết Huy góp ngói lợp mái.

Làng Cao Phong trở thành một làng quê êm ả, có giếng nước, sân đình, có nơi thờ Thần hoàng và các vị tiên hiền, tiên liệt, có người ra lính lập được công trạng, có người học hành đỗ đạt làm quan và cao hơn cả là làng có một thiết chế văn hóa, có văn chỉ ghi nhớ thờ phụng ông tổ của Nho học và bia đá ghi danh những người đỗ Trung khoa, Tiểu khoa. Có thể nói, từ mấy thế kỷ trước, trải qua các triều Lê đến Nguyễn, làng Cao Phong đã được coi là một làng có văn hóa. Tuy ở chốn thôn dã nhưng không quá quê mùa, cư dân khắp nơi về đây khai hoang lập ấp đã đem theo cả phong tục, tập quán, nếp sống thanh lịch của vùng Sơn Nam và sự cần cù siêng năng, khôn khéo của những người nghèo phải rời quê hương đi kiếm sống.

- Làng Kim Bảng:

Ngày xưa có hai ông tên là Lý Ứng, Lý Lam quê tận xứ Đông (tỉnh Hải Dương) là tướng giỏi đã lập nhiều chiến công trong thời nhà Trần chống quân Nguyên Mông, có thể vì thất sủng với triều đình nên đành phải lánh nạn vào đây.

Đó là vào một ngày cuối Hạ đầu Thu, sau một chặng đường dài vất vả, trời đã xế chiều, thấy gốc cây Trôi to, hai ông dừng chân nghỉ lại. Bụng đói miệng khát, họ ứa nước mắt nói với nhau: “Âu cũng là số trời đã định, anh em mình chắc không qua khỏi đêm nay”. Bỗng một cơn gió mạnh thổi qua, những quả Trôi chín vàng rụng xuống. Hai ông đưa vào miệng nhai thử. Có ai ngờ vị chát chua của trời, vị ngọt bùi của đất tụ vào vỏ quả đã trả lại sinh lực cho ông Lam, ông Ứng.

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, hai ông ngỡ ngàng bởi nơi đây quả là một vùng đất đẹp. Cây cối xanh tươi, chim thú từng bầy nên đã quyết định ở lại dựng trại và gọi dân các nơi về sinh sống.

Lúc đầu cuộc sống rất vất vả vì thức ăn chủ yếu là hái lượm quả cây, bẫy bắt thú rừng. Sau hai ông hướng dẫn dân chặt cây, lấp đầm, lấy đất trồng lúa và tỉa ngô, kê.

“Đất lành chim đậu”, dân tứ xứ dồn về mỗi lúc một đông. Ai cũng ví vùng đất này như một trái cây mọng ngọt nuôi sống con người, nên đã đặt tên là Trại Quả (Quả có nghĩa là kết quả, là điểm dừng và còn hàm ý nhắc đến quả Trôi đã cứu sống ông Ứng, ông Lam).

Trải qua đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, người dân Trại Quả (sau gọi là làng) luôn thể hiện rõ bản lĩnh kiên cường, giàu nhuệ khí nên đã đặt thêm chữ Nhuệ phía sau thành làng Quả Nhuệ.

Dân cư ngày một đông, địa dư ngày một rộng. Hai ông Lam, Ứng bàn với dân chia làng ra làm đôi. Nửa phía trên gọi là làng Quả Nhuệ Thượng, nửa phía dưới gọi là làng Quả Nhuệ Hạ (sau này bỏ chữ Nhuệ gọi tắt là làng Quả Thượng và làng Quả Hạ). Ngày nay Quả Thượng là làng Kim Bảng.

Những năm cuối đời, ông Lam, ông Ứng xuất gia nhập thiền, làm việc thiện.

Vào một đêm cuối mùa Xuân, bỗng trời nổi mưa to, sấm lớn, hai ông bỏ am bỏ làng ra đi. Cả làng chia nhau đi tìm nhưng chỉ thấy dấu ông Lam đi về hướng Tây và đến một bãi rậm ở làng Neo Trung (nay thuộc xã Bắc Lương) thì mất. Sáng ra tìm lại chỉ thấy một đống mối đùn to như chiếc mộ chôn.

Biết là ông đã quy tiên, cả làng thương tiếc rước bài vị ông về làm lễ tang trọng vọng và tôn là Thành hoàng thờ ở đình làng. Hiện ở Neo Trung nơi ông mất vẫn có đền thờ ông. Đình làng Quả Thượng vẫn lưu truyền câu đối:

“Tướng Lý phù Trần Chiêu vỹ liệt

Xuất Thần nhập Phật Diệu huyền cơ”.

III. ĐIỆN THỜ VÀ BIA KÝ

Ở xã Nam Giang có điện Càn Long và các tấm bia đá ghi về sự tích bà Phạm Thị Ngọc Hậu, vua Huyền Tông.

- Điện Càn Long:

Càn Long điện là nơi thờ vua Lê Huyền Tông và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu cùng các vị tiên tổ dòng họ Phạm - Lê ở thôn Kim Bảng, xã Quả Nhuệ, tổng Thượng Cốc, huyện Lôi Dương, nay là thôn Kim Bảng, xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Điện được xây dựng trên một khu đất cao, rộng 3 mẫu 6 sào ở phía Nam thôn Kim Bảng.

Sử sách cũng như Ngọc phả nhà Lê cho biết: “Vua Huyền Tông băng, táng ở Lôi Dương, xây Lạc Thịnh lăng và Triều Long điện để phụng sự. Lạc Thịnh lăng còn gọi là Quả Thịnh lăng, cũng gọi là Cảnh Trị lăng theo niên hiệu của Huyền Tông. Còn Triều Long điện tức Càn Long điện theo nghĩa đen chỉ điện của nhà vua.

Cảnh Trị lăng ở chùa cổ đất Phong Lạc. Mộ mẫu hậu vua Huyền Tông cũng nằm ở vùng này. Ngôi mộ Hoàng Thái hậu trong quan ngoài quách, luyện bằng vỏ sò đập nhỏ với mật và vôi nhào đã bị đập nát, nay đã được yên vị trở lại. Một số đồ thờ phát hiện trong mộ như: chuỗi ngọc, quạt giấy đã được cất giữ để thờ phụng tại điện Càn Long. Còn Cảnh Trị lăng đã được tu tạo.

Rời lăng Cảnh Trị đi khoảng 1,5km nữa là đến địa điểm của điện Càn Long ở thôn Kim Bảng. Văn bia “Công đức trường lưu” (ở địa điểm của điện Càn Long) có đoạn chép: “Khi Huyền tông Mục hoàng đế băng hà, linh cữu được đưa về mai táng ở lăng của Nhuệ Doanh, gọi là Quả Thịnh và cũng nhân đó mà xây dựng điện miếu để tôn thờ gọi là điện Càn Long. Nhà vua ra sắc chỉ, cho phép bản xã (quê ngoại nhà vua) giữ chức chấp thư (chức quản lý điện miếu), cấp cho xã Thanh Nghĩa, quê ngoại nhà vua, thờ phụng ngày sinh, ngày kỵ, hương hỏa bốn mùa tôn nghiêm mãi mãi.

Khi lăng và điện đã hoàn tất, năm tháng thờ phụng thật là linh thiêng. Đối với các vị tiên tổ bên họ ngoại cũng đều được quy về điện miếu để phối thờ. “Việc phụng thờ như vậy, Hoàng Thái hậu đã lo xa chu đáo từ trước”. Ngoài việc xây điện Càn Long, bà Ngọc Hậu còn cho xây dựng ở quê nhà (thôn Kim Bảng) một ngôi chùa nổi tiếng để thờ Phật - đó là chùa Cẩm Long.

Điện Càn Long xưa bề thế, tôn nghiêm, chủ yếu thờ vua Huyền Tông, nhưng cũng thờ vọng cả cha mẹ vua, phối thờ thêm các bậc tiền nhân bên họ mẹ vua, bài trí hết sức rực rỡ. Hai đạo sắc năm Cảnh Hưng 22 (1761) và 32 (1771) cũng đặc biệt ân thưởng cho Phạm Trừng (một trong những hậu duệ của Hình bộ thượng thư họ Lê và bà Hiền) tước Quả Xuân hầu vì đã có công chủ trì việc xây dựng điện Càn Long, kế thừa việc thờ tự bên ngoại nhà vua.

Về dòng họ Lê Viết theo “Lê kỷ tục biên” - một cuốn sử của dọng họ cho biết: Ông Phạm Đình Kiên ở phủ Thiệu Thiên lên sống ở làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, tức làng Kim Bảng, xã Nam Giang ngày nay. Ông Kiên lấy bà Chu Thị Loan người xã Thanh Nga, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên sinh ra hai con gái là Ngọc Hiền và Ngọc Hậu. Ông Kiên mất, ba mẹ con nhờ đặt được mả ông vào phúc địa nên đúng như lời tiên tri trước đây “nhất giá công hầu, nhất giá vương” (nghĩa là: một người lấy công hầu, một người lấy vua). Bà chị là Ngọc Hiền lấy được công hầu là ông Tiến sĩ họ Lê (tên là Lê Hiệu - con Tiến sĩ Thượng thư đương triều Lê Kính) người thôn Trường Sơn, xã Quan Trung, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, làm tới chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tá lý Công thần Hình bộ Thượng thư, tước Quế Phương hầu. Còn bà em thì năm 19 tuổi duyên trời run rủi ra kinh đô, gặp vua Lê Thần Tông, nhà vua liền lấy làm vợ, sinh ra Huyền tông Mục Hoàng đế nên được tôn phong làm Hoàng Thái hậu.

Ở khu vực điện Càn Long hiện nay còn có tấm bia “Công đức trường lưu” khắc 4 mặt chữ Hán. Bia cao 1,65m, rộng 0,71m, khắc năm Chính Hòa thứ 7 (1686). Nội dung bia cùng với bài văn trong bản khắc gỗ đặt trên bàn thờ tổ họ Phạm Lê ở Kim Bảng, Hoàng Thái hậu Ngọc Hậu bàn với bà Ngọc Hiền cho con trai thứ (của mình) về Kim Bảng thờ tự họ ngoại, tức họ sinh ra chi họ Phạm Lê.

Nội dung bia chia làm 4 phần: 1. Phụng sự bi ký (Bia ghi việc thờ cúng); 2. Công đức trường lưu (công đức lưu lại lâu dài); 3. Đệ niên tuần nhật (Ngày tuần tiết trong năm); 4. Tế tự thường nghi (nghi thức thông thường để tế tự). Bốn mặt ghi chủ yếu nói về đức tôn phong thờ cúng của mẹ con vua Huyền Tông đối với các tiền nhân bên họ ngoại vua gồm: Hiển khảo (bố Hoàng Thái hậu), người được gia phong làm Thái bảo Vị quận công; Hiển tỷ (mẹ Hoàng Thái hậu), người được gia phong làm Thái bảo Vị quận công phu nhân; Hiền tổ khảo (ông nội Hoàng Thái hậu), tên húy là Đình Tiến, gia phong Thiếu bảo Hà quận công; Hiển Tổ tỷ (bà nội Hoàng Thái hậu), họ Lê, tên húy là Ý, gia phong Thiếu bảo Hà quận công phu nhân; Tiền tằng tổ khảo (cụ Hoàng Thái hậu), tên húy là Đình Biểu, gia phong Đô đốc đồng tri Hải Triều hầu; Hiển tằng tổ tỷ (cụ bà), họ Lê, tên húy là Tín, gia phong Đô đốc đồng tri Hải Triều hầu Chính phu nhân.

Điện Càn Long tuy đã bị phá rỡ, nhưng những hiện vật còn lại trong di tích, nhất là tấm bia “Công đức trường lưu” có giá trị về lịch sử và mỹ thuật Việt Nam thời Lê Trung hưng.

- Bia lăng Cảo Thịnh (thường đọc là Quả Thịnh) ở xã Quả Nhuệ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Phú Hồ hàn lâm hiệu lý và Nguyễn Đình Xuân hàn lâm hiệu lý, soạn. Nguyễn Danh Vọng, Lễ bộ Tả thị lang, tước Vinh Ngạn nam, nhuận chính. Phạm Thiềm, Tăng lục Tá quốc hòa thượng, tước Diệm Cương nam, khắc. Phạm Trừng, tước Dực Bình hầu, coi khắc. Tạo năm Chính Hòa thứ 7 (1686) nhà Lê. Bia 1 mặt, khổ 77x120cm. Chạm mặt trời, rồng, mây, hoa cuộn. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, gồm 20 dòng, khoảng 500 chữ.

Văn bia lăng vua Lê Huyền Tông, gọi là lăng Cảo Thịnh, ở xã Quả Nhuệ, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là quê của Hoàng Thái hậu (mẹ vua). Vua tên húy là Duy Vũ, sinh ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1654), là con của vua Lê Thần Tông, em của vua Lê Chân Tông, mẹ là Hoàng Thái hậu họ Phạm. Sau khi vua Lê Thần Tông băng hà, Hoằng tổ Dương vương (tức chúa Trịnh Tạc) và các quan văn võ tôn Duy Vũ lên ngôi (tức Huyền Tông) vào ngự ở chính điện để thừa nối đại thống. Từ năm Quý Mùi (1663) đổi niên hiệu là Cảnh Trị. Vua sửa sang kỷ cương, thi hành nhân chính, dân chúng khắp nơi trong nước ca ngợi là bậc thánh quân. Đáng tiếc là vua mất sớm, chỉ ở ngôi được 9 năm (1662 - 1671). Ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi (1671) vua băng, thọ 18 tuổi, thụy hiệu là Huyền Tông Mục hoàng đế.

Là một vùng quê có bề dày lịch sử và văn hóa, truyền thống yêu nước, được coi là trung tâm văn hóa, kinh tế của huyện Thọ Xuân xưa. Nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân Nam Giang vô cùng cực khổ, sống trong cảnh nô lệ lầm than. Từ khi có Đảng Cộng sản ra đời lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, tự do dân tộc, người Nam Giang mới được làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.


 

 

Chương II

VÙNG ĐẤT NAM GIANG

NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1945

 

I. VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI

Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, các làng cổ thuộc xã Nam Giang ngày nay thuộc 3 tổng của phủ Thọ Xuân. Các làng Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Cao Phong, Phúc Như thuộc tổng Nam Dương (Nam Cai). Làng Phong Lạc (còn gọi là làng Đình vì làng có một ngôi đình to nhất trong tổng), thuộc tổng Bát Náo (Bất Náo). Làng Kim Bảng thuộc tổng Thượng Cốc, khoảng trên dưới 600 hộ, chưa đến 3.000 nhân khẩu, nghề nghiệp chủ yếu là làm nông nghiệp, cấy lúa nước, những nơi đất cao trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, đậu, lạc vừng, chăn nuôi gà, vịt...

Do sản xuất nông nghiệp manh mún lạc hậu, chưa có hệ thống thủy lợi tưới tiêu, điều kiện sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, phần lớn diện tích cấy lúa hằng năm của các làng chỉ cấy được vụ Mười, một số diện tích đồng trũng cấy được lúa vụ Năm nhưng năm được mùa bình quân khoảng 70 - 80 kg thóc một sào. Do nông nghiệp không phát triển cung không đủ cầu, nhân dân các làng làm thêm một số nghề phụ như: nghề mây tre đan, nghề hàng sáo, vào rừng lấy củi, nghề sơn tràng và buôn bán nhỏ. Phần lớn nhà ở trong các làng lợp tranh, thưng phên hoặc trát đất, rất ít gia đình có nhà ngói. 95% dân số mù chữ, chỉ có một số người biết chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Người dân ốm đau chỉ biết cầu cúng hoặc uống thuốc Nam, thuốc Bắc, thường xuyên xảy ra dịch bệnh như: đậu mùa, tả lỵ, đau mắt đỏ. Nạn hữu sinh vô dưỡng thường xuyên xảy ra khiến bình quân tuổi thọ người dân không cao.

Từ khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị cực kỳ phản động, dã man và tàn bạo. Chúng thực hiện chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành 3 kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ), đặt mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau (Nam Kỳ thuộc địa, Trung Kỳ bảo hộ, Bắc Kỳ nửa thuộc địa nửa bảo hộ). Tỉnh Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ, nằm dưới quyền bảo hộ của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn trực tiếp cai trị.

Bên cạnh tòa Công sứ (cơ quan bảo hộ của thực dân Pháp), bộ máy cai trị của nhà Nguyễn ở Thanh Hóa gồm: Tổng đốc, Án sát, Bố chính và Lãnh binh. Bộ máy hành chính cấp dưới là: Tri châu người Việt đứng đầu, cùng một số Nha lại, Đội lính quản lý các mặt hành chính, an ninh xã hội. Chính quyền cơ sở gồm: trên làng là tổng, có Cai tổng, Phó tổng; làng có Lý trưởng, Phó lý quản lý. Về danh nghĩa, bộ máy hành chính cai trị của chính quyền thực dân phong kiến ở Thanh Hóa mang tính lưỡng hệ, nhưng thực chất mọi quyền hành đều tập trung vào tay thực dân Pháp mà đại diện là tòa Công sứ. Chính quyền nhà Nguyễn (Nam triều) vẫn được thực dân Pháp duy trì để làm tay sai và lừa bịp nhân dân. Vì vậy, nhân dân ta phải chịu sự đè nén, bóc lột gấp đôi, một bên là chính quyền thực dân Pháp và một bên là chính quyền phong kiến Việt Nam.

Ngay từ khi đặt chân lên đất nước ta, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân cả nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi lên. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, các sĩ phu yêu nước ở Thanh Hóa đã nổi lên chống thực dân Pháp. Nga Sơn có cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt; Vĩnh Lộc có cuộc khởi nghĩa của Tống Duy Tân; Bá Thước có cuộc khởi nghĩa của Hà Văn Mao; Thường Xuân có cuộc khở nghĩa của Cầm Bá Thước.

Là một vùng quê có chiều dày về lịch sử văn hóa và truyền thống yêu nước, nhiều sĩ phu yêu nước ở Nam Giang([1]) đã đứng lên hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp: Phong Lạc có các ông Lê Đình Mễ, Lê Đình Bạch...; Làng Cao Phong có Tú tài Phạm Duy Điểu, Lê Đình Phùng…đến năm 1889, phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung cơ bản đã thất bại. Các sĩ phu yêu nước ở Nam Giang, người thì lên miền rừng núi tránh sự truy bắt của kẻ thù, người thì về quê nhờ vào sự che chở của nhân dân để đợi thời cơ tiếp tục chống Pháp.

Sau phong trào Cần Vương thất bại, cùng với sự tước đoạt quyền tự do dân chủ, chính quyền thực dân phong kiến thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Chúng sử dụng bạo lực chính trị và quân sự, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc trong nội bộ nhân dân để dễ bề cai trị.

Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đây là cuộc chiến tranh của các nước đế quốc nhằm phân chia lại thuộc địa và thị trường thế giới. Chiến tranh vừa nổ ra, toàn quyền Đông Dương lập tức tuyên bố: “nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương (Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia) phải cung cấp cho chính quốc (Pháp) tối đa nhân lực, vật lực, đồng thời phải duy trì trật tự an ninh ở thuộc địa”([2]).

Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đã huy động ở Việt Nam 93.000 người kể cả lính chiến và lính thợ ra chiến trường làm bia đỡ đạn cho Pháp. Nam Giang có nhiều người bị bắt vào lính, có người ra đi ngày kết thúc chiến tranh còn được trở về sum họp với gia đình được gọi là “Ông Bếp” cũng có người vĩnh viễn nằm lại nơi đất khách quê người.

Kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), tuy nằm trong phe thắng lợi, nhưng nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Nền nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, giao thông vận tải bị đình đốn, giảm sút trầm trọng. Số nợ quốc gia của Pháp đã tăng lên 300 tỷ phơ-răng; số tiền 14 tỷ phơ-răng cho Sa Hoàng (Nga) vay coi như mất trắng; số vàng dự trữ ở Pa-ri không cánh mà bay sang NewYoork (Mỹ) và ngân hàng Luân Đôn (Anh).

Để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và củng cố địa vị của mình trong thế giới tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn tư bản tài chính Pháp một mặt tăng cường bóc lột quần chúng lao động trong nước, mặt khác đẩy mạnh đầu tư khai thác các xứ thuộc địa, trong đó Đông Dương (Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia) được xem là thuộc địa “quan trọng nhất, phát triển và giàu có nhất” trong tất cả các xứ thuộc địa của Pháp trên thế giới. Tính đến năm 1929, Pháp đã mở ở nước ta 50 công ty nông nghiệp, 46 công ty công nghiệp, 19 công ty mỏ, 31 công ty thương nghiệp với số vốn lên tới 4 tỷ đồng.

Cũng đến thời gian trên, Pháp đã chiếm đoạt ruộng đất lên đến 1,2 triệu ha để làm đồn điền, bằng ¼ diện tích canh tác của cả nước ta thời bấy giờ.

Ở Thọ Xuân, Pháp mở nhiều đồn điền như: Phúc Địa, Vạn Lại, Điền Trạch, Mã Hùm. Nguồn lao động ở các đồn điền này chủ yếu là người Thanh Hóa và các tỉnh ngoài Bắc như: Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Công nhân được trả những đồng lương rẻ mạt. Nhiều người ở Nam Giang vào làm ở các đồn điền, hầm mỏ, cuối cùng vẫn phải trở về quê hương, có người một đi không trở lại. Việc thực dân Pháp chiếm đất lập đồn điền đã ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận nhân dân Nam Giang làm nghề lấy củi và khai thác lâm sản.

Nhằm khai thác ồ ạt triệt để lâm sản và khoáng sản ở tỉnh ta, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người Pháp cho mở nhiều tuyến đường từ thị xã Thanh Hóa lên các châu, huyện miền núi, trong đó có đường 47, từ thị xã Thanh Hóa qua các làng Phong Lạc, Phúc Trạch Hạ, Phúc Trạch Thượng. Từ năm 1920, người Pháp cho xây dựng hệ thống thủy nông Bái Thượng, đến năm 1926 thì hoàn thành. Nhờ có hệ thống thủy nông này mà diện tích cấy lúa của Nam Giang từ một vụ trở thành hai vụ. Nam Giang trở thành vùng đất đắc địa “thứ nhất cận giang, thư nhì cận lộ”. Hai tuyến giao thông thủy bộ chạy qua, sản xuất nông nghiệp lại chủ động nguồn nước tưới, nhưng vì kỹ thuật sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phần lớn đất đai lại nằm trong tay địa chủ, cùng với sưu cao thuế nặng([3]), phu phen tạp dịch nặng nề, hủ tục lạc hậu khiến đời sống nhân dân Nam Giang ngày một khổ cực, quanh năm đầu tắt mặt tối mà đói rách vẫn hoàn đói rách.

Cùng với sự bóc lột về phu phen tạp dịch, sưu thuế nặng nề, chính quyền thực dân Pháp còn dùng chính sách “ngu để trị”. Cả phủ Thọ Xuân vào những thập niên đầu thế kỷ XX chỉ có một trường Tiểu học ở phố huyện, sau có thêm trường Quảng Thi, Bái Thượng, Tứ Trụ; mỗi năm dạy vài trăm học sinh từ lớp một đến lớp năm, nhưng cũng chỉ các gia đình khấm khá mới có điều kiện cho con đến trường học tập.

Là một vùng quê có truyền thống hiếu học, ngay từ những năm 1930, Nam Giang đã có trường Tư thục Giếng Chùa Phong Lạc. Trường học đã góp phần nâng cao dân trí không những cho nhân dân Phong Lạc mà còn cho các làng lân cận. Do đó, từ năm 1930 đến năm 1945, Nam Giang nhiều người học hành đỗ đạt. Làng Phúc Như có 7 người đỗ tuyển sinh và sơ học yếu lược; 6 người có bằng Tiểu học Pháp - Việt. Các làng khác như Phong Lạc, Cao Phong, Phúc Thượng, Phúc Hạ, Kim Bảng, Phú Gia cũng đều có người đỗ sơ học yếu lược, Perime. Đội ngũ trí thức này phần lớn sau này tham gia cách mạng, trở thành cán bộ đảng viên trong phong trào cách mạng 1936 - 1945 ở Nam Giang.

Nam Giang là một vùng quê có chiều dầy về lịch sử văn hóa, truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường bất khuất. Vào những năm 1925 - 1926, nhiều thanh niên yêu nước Thọ Xuân đã tìm đến đồng chí Lê Hữu Lập([4]) tham gia Hội đọc sách báo, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và hình thành các tổ chức cách mạng trên quê hương yêu dấu của mình.

Đồng chí Nguyễn Mậu Sung người làng Quần Kênh, tổng Kiên Thạch, huyện Thọ Xuân là người có công đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào con tim, khối óc nhân dân Thọ Xuân. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung tham gia Hội đọc sách báo ở thị xã Thanh Hóa, được tổ chức cử về Thọ Xuân truyền bá tinh thần yêu nước và xây dựng tổ chức cách mạng.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, cuối năm 1926, tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội các làng Quần Kênh (Xuân Giang), Mỹ Lý (Bắc Lương), Thượng Vôi (Xuân Hòa), Yên Trường (Thọ Lập), Yên Lược (Thọ Minh) được thành lập.

Cũng từ năm 1926, Thanh Hóa nói chung và hai phủ Thọ Xuân, Thiệu Hóa nói riêng có hai tổ chức cách mạng song song cùng hoạt động, đó là Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và tổ chức Tân Việt cách mạng đảng, gọi tắt là đảng Tân Việt. Thọ Xuân và Thiệu Hóa do các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Lê Ngọc Huỳnh, Hà Duyên Đạt trực tiếp chỉ đạo. Phong trào Tân Việt lan rộng ở các làng thuộc hai huyện như: làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê (Xuân Minh), Canh Hoạch (Xuân Lai), Vân Lộ, Phong Bái (Thọ Nguyên), Vực Trung, Vực Thượng (Xuân Thành), Phúc Bồi (Thọ Lập), Mỹ Thượng (Xuân Hòa). Hoạt động của tổ chức Thanh niên và Tân Việt chủ yếu là vận động nhân dân học chữ Quốc ngữ, chống áp bức bóc lột, bài trừ mê tín dị đoan và tuyên truyền tinh thần yêu nước.

Trong vòng 3 năm từ năm 1926 đến đầu năm 1929, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân nói riêng và cả tỉnh nói chung phát triển sâu rộng, số hội viên, đảng viên của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt ngày một đông.

Đến giữa năm 1929, mặc dù đảng Tân Việt bị địch khủng bố, các đồng chí cán bộ chủ chốt của đảng như: Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ... bị địch bắt, nhưng phong trào cách mạng của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt vẫn tiếp tục phát triển.

II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI DÂN SINH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XÃ NAM GIANG (1936 - 1939)

Vào đầu năm 1930, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh, vai trò lãnh đạo của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và Tân Việt cách mạng đảng gặp nhiều bất cập và hạn chế. Quần chúng cách mạng trong tỉnh đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng triệt để để lãnh đạo cách mạng. Đó là tổ chức Cộng sản, bộ tham mưu đội quân tiên phong của giai cấp vô sản.

Ngày 03 tháng 02 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức Cộng sản trong nước, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chỉ đạo.

Ngày 22 tháng 7 năm 1930, Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Thọ Xuân được thành lập tại làng Yên Trường (nay thuộc xã Thọ Lập) gồm 7 đảng viên, do đồng chí Lê Văn Sỹ làm Bí thư Chi bộ([5]). Từ đây phong trào cách mạng Thọ Xuân trực tiếp có Đảng lãnh đạo.

Ngày 29 tháng 7 năm 1930, một sự kiện lịch sử trọng đại của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã diễn ra tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ, làng Yên Trường, đó là Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Hội nghị đã quyết định nhiều chủ trương công tác có ý nghĩa mở đầu của Đảng bộ và phong trào cách mạng trong tỉnh([6]):

Một là: Đẩy mạnh công tác tư tưởng, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê nin, chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng, tích cực phát triển đảng viên, xây dựng mở rộng cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ.

Hai là: Thành lập cơ quan in tài liệu của Tỉnh ủy và xuất bản tờ báo “Tiến lên” cơ quan ngôn luận đầu tiên của Đảng bộ tỉnh.

Ba là: Đoàn kết, xây dựng, tổ chức, chỉ đạo quần chúng cần lao đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống chế độ thực dân, phong kiến.

Bốn là: Bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí Lê Thế Long, Lê Văn Sỹ và Vương Xuân Cát; đồng chí Lê Thế Long được bầu làm Bí thư. Đồng chí Lê Văn Sỹ, Bí thư Chi bộ Thọ Xuân vinh dự được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Nhà đồng chí Lê Văn Sỹ được chọn đặt cơ quan ấn loát của Tỉnh ủy.

Tính đến cuối tháng 8 năm 1930, huyện Thọ Xuân đã có 3 chi bộ đảng, chia làm 8 tổ đảng, trong đó có chi bộ ghép Neo - Quần Kênh gồm 11 đảng viên (Neo 7 đảng viên, Quần Kênh 4 đảng viên). Tuy Đảng bộ tỉnh và các chi bộ ở Thọ Xuân mới được thành lập nhưng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được nhiều thắng lợi, như cuộc đấu tranh đòi chia lại công điền, công thổ ở Yên Trường, cuộc đấu tranh không đi đắp đường vào Phúc Địa (Quảng Phú) của nhân dân xã Chỉ Tín (Xuân Tín); tổ chức nông hội đỏ không ngừng phát triển, mở rộng cơ sở Đảng.

Do ảnh hưởng của các chi bộ Cộng sản, quần chúng yêu nước và các đảng viên, hội viên của Tân Việt và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tìm cách liên kết với nhau xây dựng và củng cố cơ sở cách mạng, xây dựng được nhiều nhân tố mới. Một số hội viên, đảng viên của Tân Việt cách mạng đảng chuyển hóa thành đảng viên Cộng sản.

Do nhiều yếu tố khách quan, phong trào và các tổ chức cách mạng chưa về đến các làng Phú Gia, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phong Lạc, Cao Phong, Kim Bảng (Nam Giang). Dưới ách cai trị và bóc lột hà khắc của chính quyền thực dân phong kiến, đời sống nhân dân ngày một bần cùng hóa. Tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc ngày càng sâu sắc, nó như ngọn lửa hồng ngày đêm âm ỉ, chỉ đợi ngọn gió lành là bùng lên, và ngọn lửa yêu nước ấy ở Nam Giang đã bùng lên, đó là cuộc cải lương hương thôn, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939).

Cuối năm 1930, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân nói riêng và toàn tỉnh nói chung đang trên đà phát triển và mở rộng. Chính quyền thực dân phong kiến phát hiện được hành tung của các chi bộ Cộng sản ở Thọ Xuân và trong tỉnh. Địch tập trung lực lượng mật thám, binh lính khủng bố trắng. Hầu hết cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt của Đảng và một số cán bộ cách mạng quần chúng bị địch bắt, tra tấn, tù đày.

Về danh nghĩa, Đảng bộ Cộng sản Thanh Hóa đã tan rã, nhưng cương lĩnh, đường lối của Đảng vẫn còn nguyên trong con tim khối óc nhân dân trong tỉnh. Người trước bị bắt, người sau đứng lên dân cao ngọn cờ của Đảng.

Ngày 01 tháng 9 năm 1931, thực hiện chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí Ngô Đức Mậu đã triệu tập các đảng viên trong tỉnh chưa bị địch bắt tổ chức hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa tại làng Hồ Thượng (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Tĩnh Gia). Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ người Thọ Xuân được bầu vào Ban Chấp hành.

Cuối tháng 4 năm 1931, Tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức hội nghị mở rộng tại phía nam Phà Ghép (Tĩnh Gia), bàn biện pháp đấu tranh hưởng ứng cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Hà Duyên Đạt người Thọ Xuân được bầu vào Tỉnh ủy viên chính thức.

Sau hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, các đồng chí cách mạng đã tổ chức treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao khổ trong tỉnh hưởng ứng cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Vận động, tổ chức cho nhân dân, công nhân đấu tranh chống áp bức bóc lột, giành quyền lợi của mình và tiến lên mít tinh, biểu tình ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Hà Duyên Đạt, truyền đơn kêu gọi nhân dân ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh được rải ở đồn điền Vạn Lại, phố Bái Thượng và phủ lỵ Thọ Xuân. Công nhân, nhân dân truyền tay nhau đọc tài liệu của Cộng sản. Cũng trong ngày 01 tháng 5 năm 1931, cờ đỏ búa liềm được treo ở Nông Cống, nhà ga Thanh Hóa, huyện đường Vĩnh Lộc. Truyền đơn cũng được rải ở các nơi như Tĩnh Gia, Quảng Xương, thị xã Thanh Hóa, Nhà máy Diêm Hàm Rồng, Đông Sơn, Yên Định, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc... đã tạo ra dư luận rộng rãi trong tỉnh, ảnh hưởng sâu rộng tới quần chúng nhân dân.

Giữa lúc phong trào cách mạng ở Thanh Hóa đang có chiều hướng phát triển mạnh mẽ thì chính quyền thực dân phong kiến đã phát hiện ra đầu mối, địch tập trung mật thám và binh lính truy lùng các đảng viên, cán bộ trong Đảng bộ. Toàn bộ ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và nhiều quần chúng cách mạng bị địch bắt, cầm tù, tra tấn dã man.

Trong hai năm 1935 - 1936, Thanh Hóa được mùa, kinh tế có khá lên đôi chút, nhưng dưới sự cai trị của chính quyền đế quốc phong kiến, sưu cao thuế nặng, đời sống nhân dân Nam Giang vẫn vô cùng khó khăn. Bên cạnh nghề chính là nông nghiệp, nhân dân vẫn phải làm thêm các nghề phụ để mưu sinh như nghề mây tre đan, làm hàng sáo, lên rừng hái củi, làm nghề sơn tràng hoặc buôn bán nhỏ... Người dân một nắng hai sương đầu tắt mặt tối mà cơm vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ ấm.

Tháng 4 năm 1936, tại nước Pháp, mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và lên nắm quyền. Sự kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị các nước Đông Dương và có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Bị sức ép chính trị của thế giới và sự đấu tranh kiên quyết của nhân dân cả nước, chính quyền thực dân Pháp buộc phải ân xá cho các chính trị phạm. Các chiến sĩ cách mạng ra khỏi nhà tù đế quốc trở về quê hương xây dựng phong trào, lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Lúc này mọi hoạt động cách mạng trên địa bàn phủ Thọ Xuân và cả tỉnh Thanh Hóa là hoạt động công khai và bán công khai.

Đầu năm 1936, được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng tổng Bất Náo, Hội Tương tế ái hữu làng Cao Phong được thành lập gồm các ông: Phạm Duy Dạng, Phạm Duy Đức, Phạm Hữu Chước, Lê Đình Toát, Phạm Duy Tụ, Lê Văn Đang([7]). Hoạt động của hội là giúp đỡ người nghèo, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn hoạn nạn, vận động nhân dân bỏ các hủ tục lạc hậu trong cưới xin, ma chay, nạn mê tín dị đoan, mở lớp dạy chữ Quốc ngữ. Từ 6 hội viên nòng cốt ban đầu, sau này làng Cao Phong có thêm nhiều người tham gia Hội Tương tế ái hữu.

Cũng vào đầu năm 1936, do được giác ngộ đọc sách báo “Tiếng dân”, “Tin tức” và ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp, nhiều làng ở Thọ Xuân có các tổ chức cách mạng, được sự tuyên truyền giác ngộ của các đồng chí cán bộ tổng Kiên Thạch, Bất Náo, cuối năm 1936, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Như được thành lập gồm các ông: Phùng Xuân Hênh, Lê Sĩ Nghiêm, Lê Sĩ Quới, Lê Viết Điềm, Lê Nhật Nghiêm... Hội đã lôi cuốn được rất nhiều người tham gia, hoạt động của hội là giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp đỡ nhau lúc ốm đau hoạn nạn, giúp nhau sản xuất... Hội bàn với các vị cao niên, chức sắc trong làng, bỏ lệ tế lễ xôi thịt, thay bằng oản xôi, bánh trái trong các ngày lễ kỵ, xóa bỏ hủ tục lạc hậu như: làm chay, bói toán, tổ chức các lớp học dạy chữ Quốc ngữ.

Vào giữa năm 1936, được sự tuyên truyền giúp đỡ của các đồng chí cán bộ tổng Bất Náo, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Trạch Thượng ra đời. Hội giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng họ, phường, bài trừ các hủ tục lạc hậu, chống mê tín dị đoan, vận động nhân dân học chữ Quốc ngữ. Thông qua các hoạt động trên để tuyên truyền đường lối cách mạng và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Cuối năm 1936, mặc dù chưa liên lạc được với Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung kỳ nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ đạo của Đảng in trên các báo công khai, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã tổ chức hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Yên Lộ (xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa) để bàn chủ trương, giải pháp tổ chức đấu tranh công khai và bán công khai, chống chính quyền thực dân phong kiến, đòi dân sinh, dân chủ.

Tính đến cuối năm 1936, Hội Tương tế ái hữu được thành lập khắp các làng trong huyện Thọ Xuân([8]) như: Long Linh Nội, Long Linh Ngoại (Thọ Trường), Canh Hoạch (Xuân Lai), Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung (Xuân Minh), Phúc Bồi (Thọ Lập), Quần Kênh (Xuân Giang), Nam Thượng (Tây Hồ), Thượng Vôi (Xuân Hòa), Mỹ Lý (Bắc Lương) và 3 làng của xã Nam Giang.

Dưới sự lãnh đạo của các chiến sĩ Cộng sản, Hội Tương tế ái hữu đã thực hiện xuất sắc vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân giúp đỡ, tương trợ nhau trong lao động sản xuất và đời sống, tổ chức đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, chống áp bức bóc lột, đưa phong trào cách mạng 1936 - 1939 trong huyện từ thấp lên cao, từ quy mô làng xã lan tỏa cả tổng, cả huyện; từ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế tiến tới đấu tranh chính trị; từ phong trào nhỏ lẻ tiến lên cao trào rộng khắp.

Do điều kiện địa lý gần trung tâm, bị địch quản lý gắt gao nên các làng Phúc Trạch Hạ, Kim Bảng, Phú Gia, hội Tương tế ái hữu được thành lập muộn hơn. Đầu năm 1938, hội Tương tế ái hữu làng Phong Lạc được thành lập, do ông Lê Công Thúy làm Tổ trưởng. Hoạt động của hội chủ yếu là tập hợp lực lượng đấu tranh chống địa chủ, cường hào trả công cấy, gặt rẻ mạt, giúp nhau trong sản xuất và trong sinh hoạt đời sống hàng ngày.

Mở đầu cho phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới bùng nổ, năm 1937 là cuộc vận động đón Gô-đa, đưa bản thỉnh nguyện lên Chính phủ Pháp của nhân dân phủ Thọ Xuân. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các chiến sĩ Cộng sản Thọ Xuân đã chỉ đạo Hội Tương tế ái hữu các làng ký vào đơn thỉnh nguyện. Tiếp theo là cuộc đấu tranh của phụ nữ các làng, xã Xuân Minh chống địa chủ, cường hào trả công cấy, gặt rẻ mạt; cuộc đấu tranh hạ uy thế Lý trưởng do các hội viên Tương tế ái hữu làm nòng cốt. Cuộc đấu tranh chia lại công điền, công thổ do Hội Tương tế ái hữu làm nòng cốt như: Phúc Thượng (Xuân Hòa), Yên Lược (Thọ Minh). Tháng 10 năm 1937, Tri phủ Thọ Xuân Khiếu Hữu Kiều bắt nhân dân các làng quanh làng Bàn Thạch vào vét âu thuyền Bàn Thạch nhưng lại không trả tiền công. Hội Tương tế ái hữu làng Quần Kênh cùng Hội Tương tế các làng tổ chức cho nhân dân lên phủ đường đấu tranh đòi tiền công. Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân, Tri phủ Thọ Xuân buộc phải trả tiền công cho người lao động.

Hội Tương tế ái hữu Phúc Bồi (Thọ Lập) đã vận động quần chúng nhân dân trong làng đấu tranh với gia đình địa chủ Nguyễn Thị Dậu không cho chôn người chết trong vườn và buộc gia đình bà Dậu phải trả lại 30 mẫu ruộng và 30 con trâu, bò mà gia đình bà Dậu đã chiếm đoạt của nông dân.

Đến cuối năm 1938, các cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị - xã hội liên tiếp bùng nổ trên địa bàn phủ Thọ Xuân. Tại Trung Vực (Xuân Thành), đồng chí Trịnh Ngọc Phớc và Hội Tương tế ái hữu đã tổ chức cho quần chúng đấu tranh chống phu phen tạp dịch, không đi đắp đường vào ấp của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều.

Dưới sự chỉ đạo của cán bộ cách mạng tổng Bất Náo và các chiến sĩ Cộng sản phủ Thọ Xuân, Hội Tương tế ái hữu làng Cao Phong cùng Hội Tương tế ái hữu các làng Phong Lạc, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, làng Phú Gia, Kim Bảng vận động quần chúng nhân dân đấu tranh không đi đắp đường vào phủ Quan Thành của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều ở Nông Cống và cùng nhau làm đơn kiện Tri phủ Khiếu Hữu Kiều bóc lột công lao động của nhân dân, làm ảnh hưởng đến chi giang 10. Đơn kiện lên chính quyền thực dân phong kiến, triều đình nhà Nguyễn cách chức Tri phủ Khiếu Hữu Kiều, dừng ngay việc đắp đường và điều Nguyễn Phượng Lân về làm Tri phủ Thọ Xuân.

Trước đó, vào giữa năm 1938, đồng chí Trịnh Hữu Thường được Tỉnh ủy cử về Thọ Xuân cùng với đồng chí Hoàng Sỹ Oánh tổ chức hội nghị thành lập Ủy ban vận động cách mạng phủ Thọ Xuân. Ban Chỉ đạo gồm 5 người: Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sỹ Oánh, Nguyễn Mậu Sung, Lê Khánh Việp, Nguyễn Văn Anh. Sau một thời gian hoạt động, các hội Tương tế ái hữu được củng cố và phát triển. Nhiều làng, Hội Tương tế ái hữu vận động đưa người của cách mạng vào nắm giữ những chức vụ chủ chốt như: Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần...

Đầu tháng 7 năm 1939, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sỹ Oánh đã tổ chức hội nghị cơ sở Đảng và cách mạng phủ Thọ Xuân bàn biện pháp đưa phong trào đấu tranh trong phủ lên quy mô mới với hình thức công khai, hợp pháp. Hội nghị quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở chợ Neo nhân kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp (14/7/1939). Thực hiện chủ trương của trên, Hội Tương tế ái hữu các làng: Phú Gia, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc (Nam Giang) cử hội viên tham dự mít tinh và làm công tác bảo vệ đề phòng địch bao vây khủng bố.

Sáng ngày 14 tháng 7 năm 1939, các cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng phủ Thọ Xuân đã huy động hàng ngàn quần chúng, hội viên Tương tế ái hữu giả làm người đi chợ về chợ Neo dự cuộc mít tinh. Đồng chí Trịnh Hữu Thường đọc diễn thuyết phản đối bọn phản động thuộc địa, phản bội tinh thần cách mạng Tư sản Pháp, phản đối việc khủng bố Mặt trận dân chủ Đông Dương của nhà cầm quyền, lên án chủ nghĩa phát xít, kêu gọi toàn dân đoàn kết đấu tranh đòi tự do, cơm áo, dân chủ, hòa bình... Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc tuần hành biểu dương lực lượng. Từ chợ Neo, cuộc mít tinh chia thành nhiều đoàn diễu hành về các địa phương trong phủ, vừa đi vưa hô to khẩu hiệu: “Hoan nghênh cách mạng tư sản Pháp”; “Kiên quyết phòng thủ Đông Dương”; “Đả đảo phát phát xít Đức - Ý - Nhật”; “Tự do, cơm áo, hòa bình muôn năm”... Cuộc mít tinh tuần hành thị uy đã diễn ra đúng kế hoạch, trên quy mô cả phủ Thọ Xuân, bọn thống trị không dám đàn áp.

Gần một thập kỷ Đảng ta ra đời, đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng. Mặc dù bị địch khủng bố nhiều lần, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, tù đày, Chi bộ Đảng Thọ Xuân phải thành lập đi, thành lập lại nhiều lần, qua thử thách số lượng đảng viên cơ sở Đảng, tổ chức cách mạng ngày một phát triển và mở rộng.

Đối với 7 làng cổ thuộc xã Nam Giang, ngày nay được coi là kín cổng cao rào, thường bị chính quyền đế quốc phong kiến kiểm soát gắt gao, mật thám và tay sai luôn rình mò, sẵn sàng đàn áp cách mạng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, được các chiến sĩ cộng sản, cán bộ cách mạng của phủ Thọ Xuân, tổng Bất Náo tuyên truyền vận động, từ đầu năm 1936, Hội Tương tế ái hữu đã được thành lập ở các làng thuộc Nam Giang. Và chỉ trong vòng hai năm (1936 - 1938), tất cả các làng ở Nam Giang đều có Hội Tương tế ái hữu. Năm 1936, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Như đang hoạt động mạnh mẽ thì mật thám và lính tráng ập về làng lục soát, chúng tìm thấy tờ báo “Tiếng dân” trong nhà ông Lê Sỹ Phước. Lập tức ông Lê Sỹ Phước bị địch bắt giam. Từ đây địch tăng cường dò la khám xét. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với phương thức hoạt động công khai, bán công khai, hợp pháp và bán hợp pháp, phong trào cách mạng ở Nam Giang ngày càng thu hút đông đảo quần chúng tham gia, đưa cuộc đấu tranh cách mạng từ thấp lên cao, từ những tổ chức đơn lẻ trở thành cao trào rộng khắp. Từ đấu tranh cải lương như đoàn kết giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp nhau sản xuất, bỏ các hủ tục trong cưới xin, ma chay, chống mê tín dị đoan, giảm cỗ bàn trong hội hè tế lễ, đến đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, không đi đắp đường vào ấp của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều và kiện Tri phủ Kiều mất chức, ký vào bản thỉnh nguyện đòi dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống sưu cao thuế nặng, tiến tới đấu tranh chính trị như mít tinh và tuần hành thị uy ở chợ Neo. Thông qua đấu tranh cách mạng, quần chúng nhân dân Nam Giang đã được học tập, rèn luyện nâng cao dân trí và trình độ giác ngộ cách mạng. Những thắng lợi mà nhân dân Nam Giang giành được trong thời kỳ đấu tranh cách mạng 1936 - 1939 là bài học lịch sử để nhân dân Nam Giang tiến vào giai đoạn mới đầy khó khăn gian khổ, quyết liệt hơn và tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

III. PHONG TRÀO PHẢN ĐẾ CỨU QUỐC, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945)

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Ở nước ta, chính quyền đế quốc phong kiến thẳng tay đàn áp cách mạng, tấn công vào Đảng ta và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được trong phong trào đấu tranh 1936 - 1939.

Trước tình hình đó, ngày 29 tháng 9 năm 1939, Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị cho các cấp ủy Đảng chuyển vào hoạt động bí mật và chuyển hướng bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp đề ra chủ trương chuyển hướng quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang trực tiếp đấu tranh đánh đổ chính quyền đế quốc, tay sai.

Cuối năm 1939, đồng chí Trần Hoạt - Xứ ủy Bắc kỳ thoát ly vào Thanh Hóa hoạt động. Từ Phúc Bồi (Thọ Lập), Đầm (Xuân Thiên) về Kim Ốc (Xuân Hòa), Quần Kênh (Xuân Giang), Nam Thượng (Tây Hồ). Tháng 2 năm 1940, tại làng Kim Ốc (Xuân Hòa) đồng chí Trần Hoạt (Trần Bảo) chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm Trần Hoạt, Đặng Châu Tuệ, Hồ Sỹ Nhân. Cử đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.

Đầu năm 1940, đồng chí Lê Huy Toán (Thiệu Hóa) đã nối liên lạc với các chiến sỹ cộng sản các huyện Thiệu Hóa, Yên Định và Vĩnh Lộc, thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm: Lê Huy Toán, Bùi Văn Khúc và Trịnh Huy Lãn. Đồng chí Lê Huy Toán làm Bí thư.

Tháng 3 năm 1940, đồng chí Đào Duy Dếnh - Xứ ủy Trung kỳ ra Thanh Hóa hoạt động, nhận được nghị quyết Trung ương VI và nhiều tài liệu quan trọng, đồng thời thành lập Tỉnh ủy lâm thời ở khu vực thị xã Thanh Hóa và Đông Sơn gồm 3 đồng chí: Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Cộng Hòa và Đỗ Đông Uyên. Đồng chí Nguyễn Đức Nhuận làm Bí thư.

Như vậy, vào đầu năm 1940, ở Thanh Hóa có tới 3 Tỉnh ủy lầm thời, song Thọ Xuân là nơi thành lập Tỉnh ủy lầm thời đầu tiên của tỉnh. Tháng 4 năm 1940, các đồng chí trong Ban cán sự Đảng Thọ Xuân đã nối liên lạc được với các đồng chí Lê Huy Toán (Thiệu Hóa), Trịnh Huy Lãn (Vĩnh Lộc), Lưu Văn Bân (Lưu Cộng Hòa) thị xã Thanh Hóa để thống nhất chủ trương lãnh đạo cách mạng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6.

Đầu năm 1940, bọn mật thám Pháp và chính quyền thực dân, phong kiến xếp phủ Thọ Xuân vào loại một chống đối chính quyền để thẳng tay đàn áp. Chúng thực hiện chính sách khủng bố và cướp bọc kéo dài ở Thọ Xuân và các huyện khác trong tỉnh. Đi đôi với việc cướp bóc khủng bố, chúng thực hiện chính sách mị dân, phá hoại khối đoàn kết trong nhân dân như: tăng phụ đảm chiến tranh từ 8% lên 13% và thực hiện chính sách thuế điền thổ “nhất tam quy nhị”, nghĩa là thuế đất loại một, loại ba bằng thuế đất loại hai, điều này có lợi cho địa chủ, những người có nhiều đất loại một. Trước sự cướp bóc khủng bố tàn bạo của kẻ thù, phong trào đấu tranh chống sưu cao thuế nặng đã trở thành cao trào. Các tổng Diên Hào, Kiên Thạch, Quảng Yên, Phú Hà, Thử Cốc đã có các đoàn thể phản đế cứu quốc và tự vệ cứu quốc.

Tháng 6 năm 1940, đồng chí Nguyễn Đức Cúc (Nguyễn Văn Linh) trên đường vào Nam công tác, bị mật thám Pháp theo dõi, đồng chí ghé vào Thanh Hóa, liên lạc được với đồng chí Trần Hoạt. Thời gian ở làng Kim Ốc (xã Xuân Hòa) đồng chí Nguyễn Đức Cúc đã biên tập tài liệu “Những điều cần biết của người Cộng sản” và giúp các đồng chí trong Ban cán sự hoàn chỉnh Điều lệ Hội phản đế cứu quốc, Điều lệ Tự vệ cứu quốc và ấn hành báo “Tự do”. Tất cả tài liệu này được chuyển xuống cơ sở các làng.

Tại Nam Giang vào thời điểm giữa năm 1940, được sự chỉ đạo của cán bộ cách mạng tổng Nam Dương, Bất Náo, tổ chức Tương tế ái hữu các làng Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ lần lượt chuyển sang Hội phản đế cứu quốc, hoạt động công khai, bán công khai, trong điều kiện bị địch kiểm soát gắt gao, nên việc thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ chức cứu quốc như Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão... còn hạn chế.

Vào giữa năm 1940, địch gia tăng khủng bố với thủ đoạn “chặt đầu phá ổ” cơ sở cách mạng ở Hoằng Hóa, Hậu Lộc và thị xã Thanh Hóa bị đánh phá. Các đồng chí trong Tỉnh ủy lâm thời lần lượt bị bắt.

Tháng 10 năm 1940, đồng chí Bùi San - Xứ ủy Trung kỳ ra Thanh Hóa công tác, nắm bắt tình hình ở Thanh Hóa do các chiến sỹ cộng sản cách mạng báo cáo. Cuối tháng 11 năm 1940, đồng chí Bùi San đã triệu tập hội nghị đại biểu cơ sở Đảng 4 huyện: Yên Định, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc tại làng Thuần Hậu (xã Xuân Minh) do đồng chí trực tiếp chỉ đạo. Hội nghị quán triệt nội dung tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (tháng 11/1939). Hội nghị thống nhất đưa ra 3 vấn đề cơ bản: Chuyển hướng mặt trận dân chủ sang các đoàn thể phản đế cứu quốc, tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân vào mặt trận chống phát xít chiến tranh, đánh đổ chính quyền đế quốc phong kiến giành độc lập dân tộc. Xuất bản tờ báo “Tự do”, cơ quan tuyên truyền của mặt trận phản đế cứu quốc. Hội nghị cử Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí: Trần Hoạt, Lê Huy Toán và Đặng Châu Tuệ. Đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.

Căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, Ban cán sự Hội phản đế cứu quốc các tổng Nam Dương, Bất Náo, Thượng Cốc chỉ đạo các làng ở Nam Giang([9]) tiếp tục phát triển mở rộng Hội phản đế cứu quốc, dưới danh nghĩa họ, phường, giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp nhau sản xuất, học chữ Quốc ngữ, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thông qua các hoạt động này tuyên truyền đường lối cách mạng và đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, bắt phu bắt lính bằng phương pháp công khai như: xin miễn thuế, giảm thuế, khất thuế và bằng nhiều hình thức khác nhau chống bắt phu bắt lính.

Tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. Từ đây nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Nam Giang nói riêng phải chịu “một cổ hai tròng” cả Pháp và Nhật áp bức bóc lột, đời sống nhân dân ngày một khổ cực hơn.

Cuối năm 1940, đầu năm 1941, có sự lãnh đạo thống nhất của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng trong tỉnh chuyển biến tích cực.

Tháng 2 năm 1941, Hội nghị đại biểu Đảng bộ toàn tỉnh họp tại làng Phong Cốc (Xuân Minh). Hội nghị chủ trương lấy hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hóa làm trung tâm xuất phát cho phong trào đấu tranh hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ.

Sau hội nghị Phong Cốc, các đồng chí cán bộ Cộng sản Thọ Xuân Hoàng Sỹ Oánh, Hồ Sỹ Nhân, Nguyễn Mậu Sung, Nguyễn Mậu Kiện... và các làng trong huyện truyền đạt chủ trương và xây dựng các đội tự vệ du kích. Đến tháng 3 năm 1941, các đoàn thể cứu quốc và tự vệ đã phát triển ở các làng như: Long Linh Ngoại, Long Linh Nội, Phong Cốc, Xá Lê, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Canh Hoạch. Các làng phía nam sông Chu như Phú Thượng, Kim Ốc, Kim Phú, Thượng Vôi, An Lạc, Phong Bái, Nam Thượng, Quần Kênh.

Cuối tháng 6 năm 1941, tại làng Xá Lê (Xuân Minh), 60 đại biểu trong toàn tỉnh về dự Đại hội phản đế cứu quốc, thống nhất chương trình hành động và bầu ra ban chấp hành Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh. Đồng chí Trịnh Ngọc Phớc được phân công làm Bí thư Phản đế cứu quốc. Sau hội nghị thành lập Mặt trận phản đế, phong trào cách mạng phát triển theo chiều hướng tích cực, các tổ chức phản đế cứu quốc ngày càng được củng cố và mở rộng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Tự vệ cứu quốc... Các tổ chức cứu quốc được phát triển ở các làng tạo thành lực lượng cách mạng quần chúng đông đảo.

Tháng 7 năm 1941, Tỉnh ủy quyết định thành lập chiến khu Ngọc Trạo. Ban lãnh đạo chiến khu gồm đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trịnh Huy Lãm và Đặng Văn Hỷ. Từ đây Thọ Xuân và các huyện trong tỉnh có nhiệm vụ tuyển lực lượng ưu tú đưa lên chiến khu, chi viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc men cho các chiến sỹ, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân dưới mọi hình thức đấu tranh ủng hộ khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ.

Nhằm đối phó và đàn áp phong trào phản đế cứu quốc đang phát triển trong tỉnh. Ngày 7 tháng 10 năm 1941, chính quyền thực dân phong kiến ra lệnh thiết quân luật vùng Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa. Ngày 8 tháng 10 năm 1941, địch huy động lực lượng mật thám, binh lính tấn công vào Đa Ngọc, nơi tập kết của 100 tự vệ của 3 huyện Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa trước khi lên chiến khu Ngọc Trạo. Với vũ khí thô sơ, các chiến sĩ tự vệ đã chiến đấu kiên cường. Đồng chí trung đội trưởng Nguyễn Đức Tẻo anh dũng hy sinh. Tự vệ rút về cơ sở nhờ vào sự che chở của nhân dân.

Ngày 19 tháng 10 năm 1941, địch tập trung lực lượng mật thám, binh lính bao vây chiến khu Ngọc Trạo. Sau khi chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, thực dân Pháp và chính quyền tay sai tập trung lực lượng khủng bố trắng các vùng Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, nặng nề nhất là các làng nay thuộc xã Xuân Minh và các vùng lân cận. Chúng chặt cây cối, bờ rào, cướp lúa gạo, lợn gà của nhân dân. Đối với các gia đình có người hoạt động cách mạng, chúng dỡ nhà làm đồn bốt, tuyên bố lệnh giới nghiêm. Hàng trăm cán bộ cộng sản, quần chúng cách mạng ở Thọ Xuân bị địch bắt, tù đày, tra tấn.

Ngày 20 tháng 11 năm 1941, địch bao vây đồn điền Mã Hùm (khu vực Sao Vàng ngày nay), bắt 56 công nhân lao động tập trung tra xét. Công nhân lao động tập trung bao vây đấu tranh buộc địch phải trả tự do cho những người bị bắt. Hàng chục làng xã bị tàn phá. Trước sự đàn áp khủng bố dã man của kẻ thù, phong trào cách mạng phủ Thọ Xuân cũng như các phủ huyện khác trong tỉnh tạm lắng xuống.

Tháng 7 năm 1942, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thay mặt Tỉnh ủy lâm thời về Thọ Xuân triệu tập hội nghị cán bộ cốt cán của mặt trận phản đế tại Vĩnh Nghi (xã Hạnh Phúc), hướng dẫn đề cương chuyển Mặt trận phản đế sang Hội ái quốc (Hội yêu nước).

Năm 1942, chính quyền thực dân phong kiến ra sức vơ vét tài nguyên, thóc gạo, nhân lực cung phụng cho cuộc chiến tranh của phát xít Nhật. Vừa cướp bóc bằng sưu cao thuế nặng, vừa mua bán mang tính cưỡng đoạt, tổ chức mua “thóc tạ”, “bông cân”. Chúng bắt mỗi khẩu vùng có nông giang phải bán cho chúng 2kg thóc. Nguy hiểm hơn, chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa, phá hoa màu để trồng đay, trồng lạc cho phát xít Nhật thực hiện chiến tranh ở Đông Dương. Và cùng với vỡ đê, mất mùa năm 1944, sự vơ vét, bóc lột của đế quốc, phát xít đã dẫn đến nạn đói đầu năm 1945 làm cả nước có trên hai triệu người chết đói.

Do thời gian phát triển Hội ái quốc ít và nhiều lý do khách quan khác, các tổ chức phản đế cứu quốc các làng Nam Giang chưa kịp chuyển đổi, thì đầu năm 1943, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt lại về Thọ Xuân, triệu tập Hội nghị Ái quốc các tổng trong huyện tại chùa Yên Thọ (Xuân Minh), truyền đạt Nghị quyết trung ương VIII (tháng 5/1941) và chủ trương của Tỉnh ủy chuyển Hội ái quốc sang Mặt trận Việt Minh. Các đội tự vệ cứu quốc, Hội ái quốc các tổng, làng chuyển thành Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức cứu quốc từ huyện xuống đến tổng, làng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội... đều là thành viên của Mặt trận Việt Minh.

Vào khoảng tháng 3 năm 1943, được sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh tổng Bất Náo, Mặt trận Việt Minh làng Phúc Trạch Thượng được thành lập, củng cố lại các tổ chức đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão, Nông dân... hoạt động theo cương lĩnh điều lệ của Mặt trận Việt Minh. Cùng thời gian này, Mặt trận Việt Minh làng Phúc Trạch Hạ cũng được thành. Các đoàn thể cứu quốc trong làng được củng cố, phát triển thêm thành viên. Cũng như Phúc Trạch Thượng, đội tự vệ cứu quốc làng Phúc Trạch Hạ được thành lập. Đây là hai đơn vị vũ trang cách mạng đầu tiên của xã Nam Giang.

Vào vụ năm 1944, phát xít Nhật thúc ép thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai phải nộp cho Nhật 900 tấn gạo([10]). Thi hành mệnh lệnh của Nhật, Pháp và chính quyền tay sai tăng thuế điền thổ vùng có nông giang lên 2,1kg; vùng không có nông giang tăng 1,4kg; đồng thời ra lệnh cho tổng lý phải thu mua bình quân mỗi mẫu 120 kg thóc với giá rẻ mạt([11]).

Thủ đoạn cướp bóc của Nhật - Pháp càng đè nặng lên đầu, lên cổ nhân dân. Thực hiện lời kêu gọi của Tỉnh bộ Việt Minh “Nạp lúa cho giặc là cấp lương thực cho quân giặc khỏe tay bắn giết dân ta... Thà bán rẻ cho nhân dân còn hơn bán đắt cho giặc... Giữ lấy lúa mà ăn”. Nhân dân các làng, tổng đồng loạt không nộp thuế, không bán thóc cho địch. Đa số lý trưởng các làng đã ngả về phía nông dân, cùng tham gia đấu tranh. Một người hám lợi về các làng, các tổng mua lúa gạo bị tự vệ và nhân dân xua đuổi.

Mùa mưa lũ năm 1944, nhiều đoạn đê sông Chu bị vỡ. Dân phu nhiều làng, tổng lên công trường đắp đê đã đoàn kết đấu tranh chống đánh đập, bớt xén khẩu phần lương thực hàng ngày. Khởi đầu là phu đắp đê làng Yên Lược. Tiếp đến là cuộc đấu tranh của nhân dân tổng Nam Dương và tổng Bất Náo, trong đó có nhân dân các làng Nam Giang đã đoàn kết đấu tranh, buộc bọn cai đội trên công trường đắp đê sông Chu phải trả lại số gạo mà bọn chúng đã bớt xén.

Đầu năm 1945, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân Thọ Xuân chống thu thuế, thu thóc, thu bông, bắt phu, bắt lính đã lên đến cao trào và thu được nhiều thắng lợi. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạng. Các tổ chức đoàn thể phát triển sâu rộng. Để thống nhất sự chỉ đạo, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt về Thọ Xuân cùng Ban cán sự Việt Minh huyện chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh các tổng, tập hợp sức mạnh quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Bước sang năm 1945, do vỡ đê mất mùa của vụ mười năm 1944 và sự vơ vét cướp bóc thóc gạo của Nhật - Pháp, nạn đói đã diễn ra trên đất Nam Giang. Các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phong Lạc, Phúc Như, Phú Gia, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ nhiều gia đình đã hết lương thực. Trên địa bàn huyện Thọ Xuân nhiều làng đã có người chết đói.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, cơ sở Đảng huyện Thọ Xuân tổ chức cho nhân dân đấu tranh chống âm mưu cướp bóc, vơ vét thóc gạo của Nhật - Pháp và ra chủ trương chống đói, cứu đói.

Ngày 5 tháng 3 năm 1945, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa ra chỉ thị “Đòi ăn”. Dưới sự chỉ đại của Mặt trận Việt Minh huyện, tổng, Việt Minh các làng ở Nam Giang kêu gọi nhân dân tương thân, tương trợ với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”; vận động các gia đình còn thóc gạo giúp đỡ những gia đình nghèo hết ăn; cứu đói cho đồng bào Liên khu Ba tản cư vào vùng tự do xin cứu tế, phát chẩn tập trung ở chợ Neo(1). Thông qua phong trào cứu đói, Mặt trận Việt Minh các làng ở Nam Giang đã tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, lý hương đi theo cách mạng.

Trên địa bàn Thọ Xuân, các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy của nhân dân và lực lượng tự vệ đấu tranh lên án tội ác của Nhật - Pháp, tổ chức cho nhân dân làm đơn gặp Tri phủ đòi cứu tế. Việt Minh đến các nhà giàu còn nhiều thóc gạo vận động cho các gia đình nghèo vay thóc gạo.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Mũi nhọn đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta lúc này chĩa thẳng vào phát xít Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh phủ Thọ Xuân tổ chức phong trào kháng Nhật cứu nước. Các cuộc tuyên truyền công khai chống Nhật và đấu tranh vạch trần chiêu bài giả hiệu độc lập của bọn phản động việt gian Đại Việt.

Cũng từ đây, Mặt trận Việt Minh các làng ở Nam Giang hoạt động nửa công khai và công khai. Cương lĩnh cứu nước của Mặt trận cũng được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Tự vệ du kích tích cực luyện tập, mua sắm, rèn đúc vũ khí.

Tháng 6 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, huyện Thọ Xuân tiến hành xây dựng căn cứ khởi nghĩa là tổng Thử Cốc. Lực lượng tự vệ ở đây rất mạnh. Chỉ 3 làng (nay thuộc xã Thọ Trường) lực lượng tự vệ đã lên đến 1.200 người với đầy đủ vũ khí, dao, kiếm, giáo mác. Tự vệ làng Căng Hạ (Thọ Trường) còn mua được 2 khẩu súng Nhật.

Tháng 7 năm 1945, vùng căn cứ khởi nghĩa của Thọ Xuân đã mở rộng đến 3 tổng Nam Dương, Bất Náo, Kiên Thạch. Lực lượng tự vệ của các tổng thường xuyên tổ chức các cuộc tuần hành thị uy, tuyên truyền cương lĩnh chống Nhật cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Mở đầu là cuộc mít tinh của tự vệ 3 tổng gồm 500 tự vệ tại làng Phong Bái (Thọ Nguyên) được chuyển thành cuộc tuần hành thị uy đi qua 3 tổng Nam Dương, Kiên Thạch, Bất Náo. Cuộc tuần hành đi qua phủ lỵ Thọ Xuân. Huyện trưởng Phan Quốc Lương và bộ máy chính quyền tổng, lý không dám ngăn cản. Như vậy là đến cuối tháng 7 năm 1945, Việt Minh và lực lượng tự vệ đã làm chủ được 4 tổng: Thử Cốc, Nam Dương, Kiên Thạch và Bất Náo. Ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa đang họp tại làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hóa) bàn biện pháp xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 15 tháng 8, nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Tỉnh ủy kịp thời quyết định khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn toàn tỉnh và hướng dẫn thành lập Ủy ban khởi nghĩa, Ủy ban nhân dân lâm thời các huyện. Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Hoàng Sỹ Oánh làm Trưởng ban khởi nghĩa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa và Ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân được thành lập gồm các đồng chí: Hoàng Sỹ Oánh, Hoàng Văn Cài, Hoàng Văn Ngữ, Hồ Sỹ Nhân, Nguyễn Mậu Sung, Nguyễn Mậu Kiện, Lê Xuân Tại. Ủy ban khởi nghĩa huyện chỉ định Trưởng ban khởi nghĩa các tổng. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung và Hồ Sỹ Nhân làm Trưởng ban khởi nghĩa hai tổng xung yếu quanh huyện lỵ.

Cuộc khởi nghĩa diễn ra vào hồi 0 giờ ngày 19 tháng 8 trên khắp địa bàn huyện. Lực lượng tự vệ và nhân dân đã áp đảo hoàn toàn chính quyền địch. Rạng sáng ngày 19 tháng 8, lực lượng tự vệ dưới sự chỉ huy của đồng chí Hoàng Sỹ Oánh, Hoàng Văn Cài, Nguyễn Mậu Kiện nhanh chóng bao vây phủ đường Thọ Xuân, tước vũ khí của lính gác và tiểu đội vũ trang, bắt huyện trưởng Phan Quốc Lương đầu hàng vô điều kiện, giao ấn tín cho cách mạng.

Sau khi chiếm được huyện lỵ, dưới sự chỉ huy của đồng chí Hoàng Sỹ Oánh và Hoàng Văn Cài, lực lượng khởi nghĩa lên Bái Thượng kết hợp với lực lượng tự vệ do đồng chí Hoàng Văn Ngữ chỉ huy đánh chiếm Sở bang tá và đồn bảo an.

Tại tổng Bất Náo, cũng như các tổng khác, đúng giờ khởi nghĩa, lực lượng tự vệ và nhân dân các làng dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh kéo đến nhà Cai tổng, Lý trưởng thu hồi đồng triện, giấy tờ sổ sách và tuyên bố giải tán chính quyền cũ. Cũng trong ngày 19 tháng 8, Ủy ban nhân dân lâm thời các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ được kịp thời thành lập.

Tính đến chiều ngày ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa trên địa bàn huyện Thọ Xuân đã thắng lợi trọn vẹn mà không có đổ máu hy sinh. Chính quyền cách mạng được thành lập từ huyện xuống đến làng.

Sáng ngày 20 tháng 8 năm 1945, lực lượng tự vệ và nhân dân trong huyện tiến về phủ lỵ Thọ Xuân mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Ủy ban nhân dân lâm thời huyện ra mắt quốc dân đồng bào. Đồng chí Hoàng Sỹ Oánh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời huyện đọc diễn văn chào mừng khởi ngĩa thành công, công bố danh sách thành viên Ủy ban nhân dân lâm thời huyện; kêu gọi nhân dân trong huyện đoàn kết bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm xây dựng chế độ mới.

Cuộc mít tinh kết thúc trong tiếng hoan hô vang dội của quần chúng nhân dân: “Ủng hộ chính quyền nhân dân”; “Việt Nam hoàn toàn độc lập”; “Việt Minh muôn năm”.


 

 

Chương III

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI

DIỆT GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, TIẾN TỚI

THÀNH LẬP XÃ NAM GIANG

CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP THẮNG LỢI

(1945 - 1954)

 

I. CHỐNG GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (8/1945 - 12/1946)

Nằm trong hoàn cảnh chung của cả tỉnh, cả nước, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân trong những ngày đầu mới thành lập đứng trước những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua.

Ngay sau khởi nghĩa thành công, chính quyền nhân dân lâm thời tiếp quản huyện đường với mấy gian nhà trống, mọi hoạt động của chính quyền cách mạng đều phải dựa vào các đoàn thể và sự đóng góp của nhân dân.

Bộ máy chính quyền từ huyện xuống cơ sở mới thành lập còn non yếu, bỡ ngỡ lúng túng trong tổ chức và quản lý xã hội. Đời sống nhân dân, nhất là nông dân vô cùng khó khăn. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra trầm trọng. Nạn đói đầu năm 1945 kéo dài, đe dọa hàng ngàn sinh mạng con người trong huyện. Hơn 95% người dân trong huyện mù chữ. Tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện... do chế độ cũ để lại nặng nề; dịch bệnh phát sinh nhiều trong huyện.

Trong khi đó, vào trung tuần tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh tràn vào miền Bắc nước ta âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, gây cho chính phủ và nhân dân ta muôn vàn khó khăn.

Ở miền Nam, núp sau quân đội Anh, quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách cai trị lên các nước Đông Dương một lần nữa.

Tại Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào chiếm những địa điểm trọng yếu ở thị xã Thanh Hóa, uy hiếp chính quền non trẻ, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng, chúng tung tiền mua vơ vét hàng hóa, làm cho nền kinh tế trong tỉnh vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chúng ép chính quyền cách mạnh đưa tên phản động Đỗ Văn giữ chức vụ quan trọng trọng chính quyền cấp tỉnh, chúng nuôi dưỡng lập kế hoạch và cung cấp vũ khí quân nhu cho nhóm phản động Quốc dân Đảng lập đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn). Các tổ chức phản động cũng ngóc đầu dậy, tích cực hoạt động ở các vùng tôn giáo, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, cách mạng, chuẩn bị lực lượng đón quân đội Pháp trở lại thống trị nước ta.

Trước ngày khởi nghĩa, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: quân Tưởng Giới Thạch sẽ kéo vào miền Bắc nước ta, lực lượng phản động quốc tế sẽ nao vây tấn công chính quyền cách mạng, bọn phản động sẽ tìm cách kết nối với bọn Quốc dân Đảng chống phá chính quyền.

Để giải quyết tình hình nói trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch ra phương hướng giải pháp bảo vệ và xây dựng chế độ mới, đối phó với các lực lượng phản động quốc tế đang âm mưu cô lập tấn công chính quyền cách mạng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp đầu tiên của Chính phủ và nói lên 6 điều cấp bách cần phải làm ngay:

Một là: phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo.

Hai là: phát động phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là: phát động tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là: thực hiện cần kiệm liêm chính, bài trừ thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là: bỏ ngay 3 thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

Sáu là: tuyên bố tự tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai việc quan trọng nhất là cứu đói ở miền Bắc và đánh giặc ở miền Nam. Đó là hai nhiệm vụ trước mắt nhưng cũng là hai nhiệm vụ chiến lược.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân kêu gọi nhân dân trong huyện tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ những gia đình còn đói.

Tại Nam Giang, dưới sự chỉ đạo của chính quyền nhân dân lâm thời và Mặt trận Việt Minh các làng, sự tuyên truyền vận động của các tổ chức đoàn thể cứu quốc, nhân dân các làng tích cực tăng gia sản xuất, tích cực khai hoang phục hóa, hàng chục mẫu ruộng bị bỏ hoang, cồn bãi được khai khẩn cấy lúa trồng màu, nhân dân các làng còn quyên góp được hàng chục đồng bạc, hàng trăm ki lô gam lương thực ủng hộ đồng bào trong tỉnh, ngoài tỉnh còn đói. Lực lượng vũ trang các làng được kiện toàn bổ sung, không ngừng luyện tập vũ trang, lập các trạm gác, tuần tra bảo vệ an ninh trật tự, bảo vệ chính quyền cách mạng. Làng xóm tiêu điều xơ xác sau nạn đói khủng khiếp giờ đây đã được hồi sinh. Mọi người dân đều tích cực xây dựng đời sống mới. Các phong trào cách mạng làm theo lời kêu gọi của Đảng, của Hồ Chủ tịch đã trở thành cao trào. Khắp nơi trong các làng ở Nam Giang đều có khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, “Quyết tâm diệt giặc dốt”. Trong các làng đều có nhiều lớp học xóa nạn mù chữ. Lớp học được mở ở nhiều nơi như: đình, chùa, nhà dân, vườn cây... Giáo viên là các thầy giáo, người có chữ tình nguyện dạy. Bảng viết là cánh cửa, nong, nia. Phấn viết là gạch non, than, đất sét. Phần lớn đều học vào buổi trưa, buổi tối. Nhiều giáo viên lăn lộn đóng góp cho phong trào như cụ Lê Huy Hớn,...

Việc chia lại công điền, công thổ ở các làng ít nhiều đã đem lại quyền lợi cho nhân dân, thúc đẩy phong trào tăng gia sản xuất. Đời sống mới đã đẩy lùi các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại như nạn cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, mê tín dị đoan...

Để đảm bảo cho sự nghiệp đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt thắng lợi, đầu tháng 10 năm 1945, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thanh Hóa, tại trụ sở Việt Minh huyện, hội nghị thành lập Đảng bộ huyện Thọ Xuân được tiến hành. Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm tình hình công tác sau ngày khởi nghĩa, đề ra những chủ trương công tác mới trong thực tế chống giặc đói, giặc dốt và sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, phát triển đảng viên và chi bộ cơ sở. Hội nghị bầu Huyện ủy lâm thời gồm 5 người. Đồng chí Dương Văn Du được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

Từ tình hình thực tiễn trong nước và thế giới, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”. Từ đây nhân dân các làng của Nam Giang lại bước vào một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản và cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.

Cuối năm 1945, thực hiện Sắc lệnh số 63 của Chính phủ, bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã. Ủy ban hành chính cấp xã bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên làm nhiệm vụ của một cấp chính quyền cơ sở có chức năng tổ chức, quản lý, điều hành xã hội trên địa bàn xã và các phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Xã mới Tiên Long ra đời gồm các làng: Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ (Nam Giang), Đống Nãi, Hội Hiền và làng Nam Thượng (xã Tây Hồ ngày nay).

Từ tháng 12 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, chính quyền xã Tiên Long và các tổ chức đoàn thể cứu quốc như: Mặt trận Việt Minh, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội (Nông dân) tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đi bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm cho mọi người hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thể lệ bầu cử Quốc hội.

Tại các địa điểm trước ngày bầu cử được trang trí rực rỡ cơ hoa, bàn thờ Tổ quốc, các khẩu hiệu. Ngày 6 tháng 1 năm 1946 trở thành một ngày hội lớn của dân tộc. Từ tinh mơ, cử tri đã tấp nập đến nơi bỏ phiếu “chọn mặt gửi vàng”, bầu đại biểu xứng đáng vào Quốc hội khóa đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Kết quả bầu cử, ông Hoàng Sỹ Oánh ứng cử viên của huyện Thọ Xuân trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa I với số phiếu rất cao.

Trước bầu cử Quốc hội, bọn phản động Quốc dân đảng, bọn đội lốt Đảng dân chủ đã tuyên truyền xuyên tạc và có nhiều hoạt động quấy rối nhưng đã bị chính quyền cách mạng ngăn chặn.

Cũng trong tháng 12 năm 1945, lực lượng Tự vệ của hai huyện Thọ Xuân, Nông Cống kết hợp với lực lượng Công an xung phong của tỉnh, tiến hành bao vây, tiêu diệt bọn Quốc dân đảng ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn), trong đó có lực lượng tự vệ của xã Tiên Long.

Bước sang năm 1946, xã Tiên Long nói chung và các làng thuộc xã Nam Giang ngày nay cơ bản đã đẩy lùi được nạn đói, nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, mọi việc cưới xin, ma chay đều được tổ chức theo đời sống mới. An ninh trật tự xã hội được đảm bảo, mặc dù cơ sở vật chất không có gì nhưng chính quyền vận động nhân dân ăn chín uống sôi, ngủ màn, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường... nên đã ngăn chặn được các dịch bệnh thường phát sinh như: tả lỵ, thương hàn, đau mắt đỏ, đậu mùa... đảm bảo sức khỏe cho nhân dân.

Các tổ chức đoàn thể cứu quốc được kiện toàn, mở rộng, là mũi nhọn xung kích trong các phong trào cách mạng ở địa phương.

Thực hiện quyết định của Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tháng 4 năm 1946, cùng với nhân dân các địa phương trong tỉnh, trong huyện, nhân dân Nam Giang đi bầu cử Hội đồng nhân dân hai cấp, cấp tỉnh và cấp xã, bầu ra Ủy ban hành chính các cấp. Ông Hoàng Sỹ Oánh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân. Ông Nguyễn Công Hữu, người làng Hội Hiền được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Tiên Long cùng Phó Chủ tịch và một số ủy viên khác.

Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 5 năm 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập, gọi tắt là Hội Liên Việt. Tháng 6 năm 1946, Hội Liên Việt huyện Thọ Xuân được thành lập (trong đó có xã Tiên Long). Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam là một tổ chức quần chúng xã hội gồm các thân hào, trí thức đến nông dân, đoàn kết mọi lực lượng thực hiện kháng chiến kiến quốc.

Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, sự đoàn kết trong nội bộ lãnh đạo huyện Thọ Xuân chưa cao xuất phát từ hoạt động kinh tài. Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã triệu tập hai hội nghị bất thường của Đảng bộ huyện Thọ Xuân.

Hội nghị lần thứ nhất vào cuối năm 1946 tại đình Nam Thượng xã Tiên Long (nay thuộc xã Tây Hồ), có đồng chí Bí thư Khu ủy khu IV và đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy về dự. Hội nghị thứ hai vào đầu năm 1947 tại đình làng Canh Hoạch, xã Minh Nghĩa (nay thuộc xã Xuân Lai), có đồng chí Hoàng Quốc Việt - Thường vụ Ban Bí thư Trung ương Đảng và đồng chí Bùi Đạt - Bí thư Tỉnh ủy về dự chỉ đạo. Sau hai hội nghị này, khối đoàn kết trong nội bộ Đảng được tăng cường, tạo điều kiện cơ bản thúc đẩy sự nghiệp cách mạng trong huyện phát triển. Và cũng từ đây, tổ chức Đảng và nhân dân xã Tiên Long bước sang một giai đoạn cách mạng mới: giai đoạn cùng cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

II. TẬP TRUNG SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1947 - 1950)

Với dã tâm quay lại xâm lược Đông Dương một lần nữa, thực dân Pháp thẳng tay gạt bỏ mọi khả năng đàm phán hòa bình. Chính phủ Pháp buộc nhân dân ta phải đứng dậy cầm vũ khí bảo vệ nền độc lập tự do mà nhân dân ta vừa mới giành được.

Sau khi đánh chiếm Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, chính phủ Pháp lao vào con đường xâm lược nước ta bằng vũ lực. Trước đó, trong hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã khẳng định: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược là không tránh khỏi”.

Mười tám tháng trời, thời gian vô cùng ngắn ngủi đối với nhân dân Nam Giang. Vừa diệt giặc đói, diệt giặc dốt và trấn áp nội loạn, đấu tranh với các thế lực phản động bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Mười tám tháng trời vừa tổ chức củng cố chính quyền, xây dựng và phát triển các tổ chức đoàn thể, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống mới.

Đêm 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước...”

Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhân dân xã Tiên Long nói chung và nhân dân 7 làng Nam Giang ngày nay nói riêng cùng cả nước đứng lên kháng chiến, bổ sung, kiện toàn lại lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ. Mỗi làng một tiểu đội, toàn xã Nam Giang có một đại đội 115 người, thường xuyên luyện tập, nhân dân hăng hái ủng hộ tiền, gạo, thực phẩm, mua vũ khí.

Cuối năm 1946, đầu năm 1947, nhân dân trong xã đóng góp hàng ngàn cây tre, hàng ngàn ngày công, đào đắp công sự, rào làng chiến đấu, đào hào xẻ rãnh, hạ các cây to làm chướng ngại vật trên các tuyến giao thông chính ngăn cản quân địch. Không khí kháng chiến tấp nập rộn ràng đến mọi làng xóm.

Tháng 1 năm 1947, Huyện Đoàn thanh niên cứu quốc huyện Thọ Xuân tổ chức hội trại tại rừng Lam Sơn. Chương trình hội trại phong phú, trong đó có văn nghệ, diễn thuyết tuyên truyền đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng và Chính phủ. Đồng chí Đinh Bờm phụ trách cứu quốc xã Tiên Long dẫn hàng trăm thanh niên trong xã về dự hội trại. Sau hội trại Lam Sơn, nhiều thanh niên trong xã Tiên Long ghi tên tòng quân vào Vệ quốc đoàn, trong đó có nhiều người thuộc xã Nam Giang ngày nay.

Để đáp ứng mọi yêu cầu cho kháng chiến, đầu năm 1947, Ủy ban kháng chiến các cấp được thành lập. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Thọ Xuân là ông Hoàng Văn Ngữ. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Tiên Long là ông Hoàng Văn Quỳnh, Ủy ban hành chính xã vẫn song song tồn tại với chức năng quản lý hành chính.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn dân “Tiêu thổ kháng chiến”, 120 dân quân tự vệ của Nam Giang đã đi phá hủy đào hào kháng chiến ở thị xã Thanh Hóa, phố Đầm (Xuân Thiên), phố Khách (thị trấn Thọ Xuân), thời gian 15 ngày, bằng 1.800 ngày công.

Tháng 5 năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tại Xuân Hòa, Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã tổ chức hội nghị toàn thể đảng viên do đồng chí Tố Hữu và đồng chí Bùi Đạt chỉ đạo trực tiếp. Hội nghị kiểm điểm tình hình hoạt động và đánh giá kết quả chỉ đạo của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Vấn đề đoàn kết nội bộ được kiểm điểm sâu sắc, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Hội nghị đề ra chủ trương công tác mới như tập trung chỉ đạo củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng hậu phương vững mạnh đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến. Hội nghị bầu Ban chấp hành Đảng bộ chính thức và bầu đồng chí Trịnh Ngọc Điệt giữ chức Bí thư Huyện ủy.

Sau hội nghị Đảng bộ ở Xuân Hòa, nhiều quần chúng cách mạng ưu tú ở Nam Giang được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng như: Lê Đình Toát, Lê Nhật Nghiêm, Phạm Duy Đào...

Đầu năm 1947, đồng bào các tỉnh ngoài Bắc như Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình tản cư vào Thanh Hóa. Hàng trăm gia đình tập trung về khu vực phố Neo. Với tinh thần tương thân tương ái và chính sách giúp đỡ đồng bò tản cư, chính quyền, các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, các tổ chức cứu quốc đã vận động nhân dân nhường nhà cho đồng bào tản cư tạm ở. Nhân dân nhường đất, ủng hộ vật liệu như: tre, luồng, tranh, phên để đồng bào làm nhà. Nhiều gia đình còn cho ruộng để nhân dân sản xuất, ổn định cuộc sống.

Do yêu cầu phát triển lực lượng quân sự, trang bị vũ khí và lương thực ngày một tăng, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến huyện Thọ Xuân phát động phong trào ủng hộ bộ đội, dân quân tự vệ và ủng hộ kháng chiến. Nhân dân Nam Giang ủng hộ lúa khao quân 75 tạ, mua công trái quốc gia 250 tạ. Tiêu biểu nhất là ông Lê Viết Cổn làng Phong Lạc là người tích cực tham gia “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”. Tại thời điểm này ông đã ủng hộ 10 vạn đồng để cấp dưỡng bộ đội địa phương... Thành tích này đã được tổng Bất Náo tôn vinh đưa lên Kiệu rước về đình làng Phong Lạc để nhận cờ luân lưu và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhằm quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng và Bác Hồ cho nhân dân trong toàn xã, đầu năm 1947, xã Tiên Long đã cử các cán bộ đi dự lớp tập huấn nghiệp vụ thông tin tuyên truyền do huyện mở tại làng Vĩnh Nghi (nay thuộc xã Hạnh Phúc). Tại lớp tập huấn này, các học viên đã được học tập Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, học tập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Trung ương, bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền và hoạt động văn nghệ quần chúng. Do được tuyên truyền vận động, các tổ chức hội đoàn như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội cứu quốc... hoạt động tích cực. Nhân dân Nam Giang thấm sâu đường lối kháng chiến và các chủ trương, chính sách của Nhà nước, tích cực tăng gia sản xuất đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Tháng 4 năm 1947, huyện Thọ Xuân thành lập đại đội vũ trang tập trung gồm 3 trung đội do đồng chí Lê Thọ Thợi làm đại đội trưởng. Cũng từ đây lực lượng dân quân tự vệ Nam Giang đổi thành lực lượng dân quân du kích, thường xuyên luyện tập, sinh hoạt đời sống và tiền mua vũ khí do nhân dân tình nguyện ủng hộ.

Giữa năm 1947, Hội Mẹ chiến sĩ huyện Thọ Xuân được thành lập, sau đó là Hội Mẹ chiến sĩ xã Tiên Long được thành lập do mẹ Lê Thị Thái ở phố Neo làm Hội trưởng. Suốt trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, mẹ Thái cùng các mẹ trong xã đã đi đầu trong các cuộc vận động nhân dân ủng hộ bộ đội, đón thương binh về làng nuôi dưỡng, động viên chị em phụ nữ may vá quần áo cho chiến sĩ; vận động nhân dân mua bánh quà, thuốc men chăm sóc thương binh, vận động bộ đội giết giặc lập công, ủng hộ 3 máy khâu; 7 phụ nữ Nam Giang nhận nuôi 7 thương binh và lấy làm chồng, nhận nuôi 15 thương binh từ miền Nam ra tập kết, ủng hộ 300.000 đồng.

Theo chủ trương của Đảng và Chính phủ về triệt để sơ tán các cơ quan, công sở, xí nghiệp, đơn vị bộ đội đến những nơi an toàn. Từ năm 1947 đến hết năm 1954, xã Nam Giang đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiều đơn vị bộ đội, các cơ quan, xí nghiệp sơ tán về làm việc, luyện quân như: Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV, xưởng công binh Bình Tứ, Tòa án quân sự liên khu IV, các đơn vị bộ đội như: Sư đoàn 304, Sư đoàn 308, Sư đoàn 316 về đóng quân huấn luyện; Trường Văn hóa nghệ thuật, xưởng Dược... Xã nhường 4 ngôi đình và hàng trăm nhà dân cho các cơ quan và bộ đội ở làm việc. Đặc biệt là giúp đồng bào Liên khu Ba tản cư vào ở địa bàn xã, nhiều gia đình trong xã đã nhường nhà cho bà con ở, nhưng tập trung nhiều nhất là ở khu vực chợ Neo (làng Phúc Trạch Hạ) chính quyền đã cấp đất, nhân dân giúp vật liệu tranh, tre, nứa lá cho bà con làm nhà ở làm ăn sinh sống. Từ đó đã hình thành một khu phố (phố Neo) buôn bán đủ các mặt hàng, dần dần phát triển thành trung tâm kinh tế, văn hóa của khu vực và cái tên phố Neo, chợ Neo vang xa từ đó cho đến tận ngày nay.

Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 mở ra một cục diện mới có lợi cho ta. Thực dân Pháp không thực hiện được chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, buộc phải tiến hành chiến lược bình định vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và tăng cường đánh phá vùng tự do ác liệt hơn. Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 làm nức lòng nhân dân xã Nam Giang, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp cho kháng chiến.

Sau Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ Nhất, tháng 5 năm 1947, nhiều quần chúng cách mạng được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trong hai năm 1947 - 1948, Nam Giang có ông Lê Đình Toát, Phạm Duy Đức, Phạm Hữu Miêng, Phạm Hữu Bưu, Phạm Duy Trúc... được kết nạp vào Đảng. Cũng từ đây, tổ chức Đảng ở Nam Giang ngày một lớn mạnh, cũng là mũi nhọn xung kích trong mọi phong trào cách mạng ở địa phương.

Theo quyết định của Chính phủ, để đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Nhà nước, từ tháng 3 năm 1948, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo việc hợp nhất UBKC và UBHC các cấp thành UBKC- HC; cũng trong thời gian này xã Tiên Long sát nhập với xã Công Lý và được đổi tên thành xã Thọ Long.

Xã lớn Thọ Long gồm 12 làng: Nam Thượng, Hội Hiền, Đống Nãi, Mỹ Lý Thượng, Mỹ Lý Hạ, Trung Thôn và Nhuế Thôn, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, do ông Nguyễn Công Hữu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã.

Trước đó, vào tháng 01 năm 1948, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ Nhất được tổ chức tại thôn Tân An (nay thuộc xã Xuân Hòa). Đồng chí Hồ Việt Thắng - Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ:

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên các mặt công tác.

- Phấn đấu xóa điểm trắng cơ sở Đảng, xã nào cũng có chi bộ Đảng.

- Thực hiện giảm tô 25%, đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất.

- Củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích.

Đại hội bầu ra 9 ủy viên chấp hành và bầu đồng chí Phạm Kỳ Vân giữ chức Bí thư Huyện ủy.

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ Nhất, ngày 5 tháng 3 năm 1948, Chi bộ Đảng Cộng sản xã Thọ Long được thành lập trên cơ sở Chi bộ xã Công Lý và 2 tổ Đảng của xã Tiên Long gồm 29 đảng viên. Đồng chí Lê Xuân Mâu được Huyện ủy cử về trực tiếp thành lập và làm Bí thư Chi bộ. Một thời gian sau, đồng chí Lê Xuân Mâu được huyện điều đi công tác khác, đồng chí Lê Văn Tốn được bầu làm Bí thư Chi bộ.

Tháng 2 năm 1948, hưởng ứng phong trào “Luyện quân lập công”, dân quân du kích xã Thọ Long không ngừng được bồi dưỡng và tập luyện để nâng cao nghiệp vụ:

- Về chính trị: Dân quân du kích được giáo dục bản chất cách mạng, chức năng nhiệm vụ của dân quân du kích, học tập đường lối kháng chiến của Đảng.

- Về quân sự: Dân quân du kích được huấn luyện cơ bản về chiến thuật đánh du kích, cách phối hợp chiến đấu, kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đánh giáp lá cà và xây dựng làng chiến đấu.

 Nhằm biểu dương lực lượng vũ trang huyện và đánh giá kết quả huấn luyện, rút kinh nghiệm bổ sung kế hoạch tác chiến, giữa năm 1948, tại sân vận động Thọ Xuân, Đại hội dân quân du kích toàn huyện được khai mạc. Thành phần tham gia Đại hội mỗi xã tham gia một trung đội dân quân, một trung đội du kích và một trung đội Lão dân quân, do cơ quan huyện đội bộ dân quân huyện chỉ huy, công tác hậu cần do các xã tự túc.

Sau 5 ngày Đại hội, giải nhất thuộc về ba xã: Trung đội Lão dân quân xã Xuân Hòa, Trung đội du kích xã Thọ Long và Trung đội dân quân xã Phú Yên.

Cũng trong năm 1948, Đảng bộ huyện đã tiến hành công tác xây dựng Đảng theo yêu cầu xây dựng chi bộ đạt danh hiệu “Tự động”, “Tiến bộ” và “Gương mẫu”.

Để có kinh phí hoạt động, khắc phục từng bước khó khăn, Đảng bộ huyện Thọ Xuân kêu gọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ủng hộ xây dựng quỹ Đảng. Với ý thức giác ngộ giai cấp, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Giang đã góp được 7.500kg thóc.

Hưởng ứng phong trào “Dân quân tự túc”, nhiều gia đình ở Nam Giang nhận nuôi từ 1 đến 2 dân quân du kích. Những gia đình nhiều ruộng thì ủng hộ vài sào, ủng hộ lợn, bò để lập quỹ nuôi dưỡng dân quân du kích.

Cuối năm 1949, hưởng ứng cuộc vận động mua công phiếu kháng chiến, nhân dân Nam Giang đã mua với số tiền 550.000 đồng (Tiền tài chính).

Nhằm cải thiện đời sống nhân dân, nhất là tầng lớp nông dân nghèo (bần, cố nông) và động viên sức người, sức của cho kháng chiến kiến quốc, ngày 14 tháng 7 năm 1949, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh giảm tô 25%. Huyện ủy Thọ Xuân thành lập Ban chỉ đạo các cấp để thực hiện sắc lệnh. Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân đã chọn ấp ông Hàn Thước có trên 100 mẫu cấy lúa, phần lớn tá điền là người ngoài Bắc như: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Lúc đầu ông Hàn Thước xin giảm tô 15%, nhưng do được tuyên truyền vận động, mặt khác do sức ép của nông dân, Hàn Thước buộc phải chấp nhận giảm tô 25%.

Giảm tô ở ấp Hàn Thước thắng lợi tạo đà, tạo thế cho nhân dân đấu tranh buộc các chủ đất trong huyện Thọ Xuân phải giảm 25% địa tô.

Đối với Nam Giang, địa chủ không nhiều, vả lại cũng ít đất, gia đình nhiều cũng chỉ mười, hai mươi mẫu. Do chi bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, hội Phụ nữ, Thanh niên, Phụ Lão cứu quốc... học tập, vận động tuyên truyền sâu rộng nên công tác giảm tô ở Nam Giang sớm thành công, đem ại quyền lợi cho dân nghèo.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, cùng với cuộc vận động giảm tô, phong trào xây dựng tổ đổi công, vần công ở Nam Giang cũng ra đời. Nông dân giúp nhau lao động sản xuất, giải quyết kịp thời những khó khăn về nhân lực, thời vụ, sức kéo trâu, bò. Quan hệ sản xuất mới hình thành. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển. Chi bộ và chính quyền còn chia lại công điền, công thổ, đất vắng chủ cho nông dân nghèo, vận động những gia đình nhiều đất hiến ruộng cho các tổ chức đoàn thể, đồng bào tản cư.

Công tác văn hóa, giáo dục được chi bộ và chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ban thông tin tuyên truyền được thành lập xuống từng làng, mỗi làng dựng một chòi phát thanh, dùng loa bằng sắt tây hoặc bằng quả bầu đất khô, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, chính phủ, tin chiến thắng ngoài mặt trận, công việc ở địa phương, gương người tốt việc tốt... đều được thông tin kịp thời tới nhân dân. Thực hiện đời sống mới, việc cưới hỏi được tổ chức trang trọng nhưng tiết kiệm, có đại diện chính quyền, các tổ chức đoàn thể đến dự hoặc chia buồn. Về tín ngưỡng, Nam Giang là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa như: đình, chùa, miếu mạo, văn chỉ hàng huyện, điện Càn Long thờ các vua và Thái hậu... tất cả đều được nhân dân và chính quyền bảo vệ nguyên vẹn, các lễ hội, kỳ lệ được tổ chức giản tiện, trang nghiêm, tiết kiệm, phù hợp trong điều kiện kháng chiến kiến quốc.

Về giáo dục: Chi bộ và chính quyền nhận thức sâu sắc mục tiêu đào tạo con người có kiến thức để phục vụ kháng chiến kiến quốc. Nam Giang vẫn duy trì 3 khu học của trường Tiểu học. Khu 1 đặt tại Văn chỉ hàng huyện (khu phố Neo ngày nay), có 2 lớp Đồng ấu (lớp 5) và lớp dự bị (lớp 4). Khu 2 đặt ở nhà ông Đìu và ông Xuân Hỡi (làng Phúc Hạ ngày nay). Khu 3 đặt tại Giếng Chùa làng Phong Lạc. Nhiều thầy, cô giáo đã gắn bó sự nghiệp giáo dục của mình với Nam Giang như: thầy Thái Văn Chén, Tô Văn Bào, thầy Khuê ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), thầy Trần Xuân Mậu quê ở xã Thọ Minh, thầy Lan và nhiều thầy cô khác. Mặc dù đời sống khó khăn, lương giáo viên ít ỏi lớp học tạm bợ, nhưng với tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, các thầy, cô giáo vượt lên khó khăn, trao truyền kiến thức cho thế hệ trẻ. Tiếp tục cho đi bổ túc ngắn ngày lớp giáo viên bổ túc văn hóa do huyện tổ chức từ ngày 22 đến 24 tháng 7 năm 1951.

 Nam Giang là vùng đất có truyền thống tôn sư trọng đạo, nhiều gia đình đã tạo điều kiện về nơi ăn chốn ở, điều kiện sinh hoạt cho các thầy, cô giáo quê ở xa. Đó chính là động lực để sự nghiệp giáo dục Nam Giang phát triển.

Về công tác y tế: Sau khởi nghĩa giành chính quyền, Nam Giang là địa phương sớm thực hiện và duy trì phong trào ăn chín uống sôi, vệ sinh cá nhân, làm nhà tiêu, ngủ màn, vệ sinh đường làng ngõ xóm sạch sẽ phong quang, một số dịch bệnh thường xảy ra trước đây như: bệnh thương hàn, tả lỵ, đau mắt đỏ, đậu mùa... đã được hạn chế, không phát sinh. Từ đầu năm 1950, ngành y tế tiến hành chủng đậu thường xuyên, cũng từ đây bệnh đậu mùa không còn xuất hiện ở Nam Giang và các vùng quê khác trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Công tác Đảng và các tổ chức đoàn thể: Từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản xã Thọ Long được thành lập với 29 đảng viên, sinh hoạt trong 3 tổ Đảng, đến năm 1950 chi bộ đã có hàng trăm đảng viên sinh hoạt ở nhiều tổ Đảng. Ở Nam Giang, đảng viên làm nòng cốt trong mọi phong trào ở địa phương cả về đạo đức và hành động. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân ngày càng sâu rộng. Riêng làng Cao Phong từ năm 1947 - 1950 đã có 17 đảng viên. Các làng khác cũng có trên dưới mười đảng viên. Hầu hết các đảng viên, các tổ đảng đều đạt danh hiệu “Tự động”, “Tiến bộ”, “Gương mẫu”.

Các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội, Phụ lão, Thiếu nhi... hoạt động có hiệu quả. Sự phối hợp nhịp nhàng chặt chẽ giữa tổ chức đảng với các tổ chức đoàn thể, cùng với nhân dân đoàn kết thấm nhuần đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng, đã góp phần đưa địa phương Nam Giang thực hiện thành công nhiệm vụ “xây dựng hậu phương phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, tạo ra tiềm lực chi viện cho tiền tuyến” như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân khóa II (tháng 3 năm 1949) đã đề ra([12]).

III. VƯỢT LÊN KHÓ KHĂN, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO KHÁNG CHIẾN (1950 - 1954)

Bước sang năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nước dân chủ nhân dân như Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác công nhận Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ngày một phát triển khiến thực dân Pháp ngày một bị động và lúng túng, mặc dù đế quốc Mỹ giúp Pháp can thiệp vào Đông Dương. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của cả dân tộc đã tạo thế và lực đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bước sang một giai đoạn mới.

Tháng 1 năm 1950, tại Hội nghị Trung ương Đảng toàn quốc lần thứ III đã nhận định: “Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch... gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Nghị quyết Hội nghị cũng nêu rõ: “phải chiến đấu để tiêu diệt sinh lực địch, gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng bộ đội chủ lực, đưa chiến tranh du kích lên ngang với chiến tranh chính quy, tích cực phá tề trừ gian, thực hiện tổng động viên theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”.

Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ III tại đình làng Quản Hạ (nay thuộc xã Thọ Lộc), từ ngày 20 đến 23 tháng 5 năm 1950, tổ chức Đảng và chính quyền Thọ Long phát động phong trào đẩy mạnh giảm tô, giảm tức, phát triển tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho kháng chiến.

Vào giữa năm 1950, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân thành lập Ban cung cấp tiền phương do đồng chí Chủ tịch làm Trưởng ban và một số thành viên trong các tổ chức đoàn thể, bên dưới là ban cung cấp các xã có nhiệm vụ: Triển khai kế hoạch điều động, tổ chức nhân lực, vật lực phục vụ cho tiền tuyến.

Hưởng ứng cuộc vận động mua “Công trái quốc gia” do Chính phủ ban hành, do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, nhân dân các làng xã Thọ Long (trong đó có các làng xã Nam Giang ngày nay) đã mua với số lượng cao, đạt 250 tạ thóc.

Thực hiện chính sách dân công phục vụ tiền phương, trong hai năm 1950 - 1951, Thọ Long có nhiều đợt dân công với hàng trăm lượt người cùng với dân công của huyện, của tỉnh vận chuyển 5.000 tấn lương thực ra khu III chuẩn bị cho chiến dịch Hà Nam Ninh.

Để giành quyền kiểm soát biên giới phía Bắc, nối liền cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc, Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Trong 2 ngày 16 và 17 tháng 9 năm 1950, quân ta đã chiến đấu kiên cường, giải phóng Cao Bằng, tiêu diệt và bắt sống hoàn toàn địch trong đồn lũy.

Chiến dịch Biên giới thắng lợi đã mở thông quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và nhiều nước khác, đồng thời đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta từ chiến lược chiến tranh du kích lên chiến lược chiến tranh chính quy.

Trung tuần tháng 2 năm 1951, từ ngày 11 đến ngày 19, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ đặc điểm tình hình của mỗi nước, Đại hội quyết định chia Đảng Cộng sản Đông Dương thành 3 đảng: Đảng Lao động Việt Nam; Đảng nhân dân cách mạng Lào và Đảng nhân dân cách mạng Campuchia.

Cũng trong tháng 3 năm 1951, Huyện ủy Thọ Xuân chỉ đạo hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt huyện Thọ Xuân, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức đoàn thể cứu quốc là thành viên, tạo thành khối đoàn kết thống nhất toàn dân tham gia kháng chiến kiến quốc.

Ngày 3 tháng 3 năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Huyện ủy Thọ Xuân tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng tại sân vận động thị trấn Thọ Xuân. Đồng chí Bí thư Huyện ủy đọc diễn văn tóm tắt sự ra đời, hoạt động của Đảng; giải thích nguyên nhân, điều kiện Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai, tuyên bố trước quốc dân đồng bào sự lãnh đạo công khai, toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp của Đảng bộ huyện với sự nghiệp cách mạng trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Tại cuộc mít tinh này, Mặt trận Liên Việt ra mắt nhân dân trong huyện. Xã Thọ Long tổ chức mít tinh tại chợ Neo chào mừng Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Cuộc mít tinh có hàng ngàn người tham gia, biểu hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất định thắng lợi.

Bị thua đau trên các mặt trận, thực dân Pháp tăng cường đánh phá vùng hậu phương của ta nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến và lung lạc ý chí kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta. Huyện Thọ Xuân trong hai năm 1950 - 1951, máy bay Pháp bắn phá nhiều nơi như: đập Bái Thượng, xã Xuân Lập, xã Thọ Nguyên, thị trấn Thọ Xuân... làm chết và bị thương hàng trăm người, phá hủy hàng trăm nóc nhà, giết chết hàng trăm con trâu, bò và phá hủy nhiều tài sản khác.

Tại xã Thọ Long, ngày 12 tháng 5 năm 1951, giữa lúc nhân dân đang họp chợ, nhiều máy bay Pháp đã ném bom bắn phá bừa bãi xuống khu vực chợ Neo và làng Phúc Trạch Thượng, làm chết 11 người và bị thương 35 người, có gia đình chết cả 4 người, làm cháy hàng chục ngôi nhà, hư hỏng nhiều hoa màu, giết hại gia súc, gia cầm và phá hỏng nhiều tài sản khác của nhân dân.

Vượt lên đau thương mất mát, dưới sự chỉ đạo của chính quyền, lực lượng dân quân du kích và nhân dân kịp thời đưa người bị thương đi cứu chữa, mai táng người chết, ủng hộ tiền, gạo, vật liệu xây dựng lại nhà cho người bị nạn, giúp nhân dân sớm ổn định lại cuộc sống.

Đầu năm 1950, theo chủ trương của Khu ủy khu IV và của Tỉnh ủy Thanh Hóa, Huyện ủy Thọ Xuân tiến hành cuộc vận động “Tự phê bình và phê bình” trong Đảng theo nội dung thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời mở nhiều lớp bồi dưỡng văn hóa, đường lối quan điểm của Đảng cho đảng viên. Trong cuộc vận động này, tư tưởng cục bộ địa phương, quan liêu, mệnh lệnh, tự do chủ nghĩa vô kỷ luật đã bị phê bình nghiêm khắc. Thời gian này tạm thời ngừng phát triển đảng viên (đóng cửa).

Sau cuộc vận động này, trình độ lý luận, kinh nghiệm lãnh đạo của cán bộ, đảng viên ở Thọ Long từng bước được nâng lên. Hoạt động của tổ chức Đảng đi vào nề nếp.

Sau cuộc vận động “phê bình và tự phê bình”, cấp ủy và chính quyền xã Thọ Long được kiện toàn, đồng chí Hoàng Văn Thi được bầu làm Bí thư Chi bộ. Đồng chí Lê Ích Khắc giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã.

Để tăng cường tiềm lực phục vụ cho chiến trường, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng chế độ mới. Năm 1951, Đảng và Chính phủ ban hành chính sách thuế nông nghiệp.

Thực hiện sắc lệnh Thuế nông nghiệp của Chính phủ, tháng 8 năm 1951, Huyện ủy triệu tập hội nghị tại đình làng Cốc Thượng xã Xuân Thịnh (nay thuộc huyện Triệu Sơn), thành phần gồm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính 24 xã và Trưởng các ban, ngành, đoàn thể trong toàn huyện. Đồng chí Hà Trọng Hòa - Phó Bí thư Huyện ủy thay mặt Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện phổ biến chủ trương thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Sau hội nghị này, huyện mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thuế cho đội ngũ cán bộ các cấp.

Tháng 10 năm 1951, xã Thọ Long (Tây Hồ, Bắc Lương và xã Nam Giang ngày nay) tiến hành kiểm kê ruộng đất, phân mảnh định hạng. Chi bộ tổ chức cho nhân dân học tập chính sách thuế nông nghiệp và đấu tranh chống các thủ đoạn khai man, giấu diện tích. Do công tác tuyên truyền vận động tốt, nhân dân thấm nhuần đường lối của Đảng và Chính phủ, nhân dân đóng thuế đầy đủ, đúng thời hạn. Trong vòng 4 năm, từ vụ mười năm 1951 đến vụ mười năm 1954, nhân dân Nam Giang đã đóng cho Nhà nước 850 tấn thóc thuế nông nghiệp.

Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, chi viện nhân lực, vật lực cho chiến trường, Huyện ủy chỉ đạo xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích theo phương hướng “Tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Vào thời điểm này, ngoài lực lượng tham gia trong đại đội của xã, mỗi làng ở Nam Giang có một tiểu đội dân quân, lương thực, thực phẩm do nhân dân trong làng đóng góp.

Sau chiến dịch Quang Trung (tháng 11 năm 1951), chiến dịch Hòa Bình mở màn, huyện Thọ Xuân huy động 3.000 dân công vận chuyển lương thực, vũ khí, tải thương, thời gian 4 tháng; đợt ngắn hạn từ 15 ngày đến một tháng. Hàng trăm dân công Nam Giang có mặt phục vụ chiến dịch và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Mặc dù gặp muôn vàn khó khăn trong kháng chiến nhưng nền giáo dục huyện Thọ Xuân vẫn không ngừng phát triển, hầu hết các xã trong huyện đều có trường cấp I. Đến năm 1952, cả huyện có 4 trường cấp II. Đó là các trường cấp II Thọ Xuân, Thọ Minh, Quang Trung (Xuân Bái) và trường tư thục Thọ Long do thầy Trương Cảnh Tam làm Hiệu trưởng, tiếp sau là thầy Phạm Hữu Tình làm Hiệu trưởng. Có thể nói, trong kháng chiến gặp muôn vàn khó khăn, nhưng từ những mái trường thân yêu này đã đào tạo nên nhiều thế hệ thanh niên có văn hóa, phục vụ cho kháng chiến. Bên cạnh các trường học phổ thông, các lớp bình dân học vụ vừa được duy trì ở các làng, học sinh phần lớn là nông dân, người cao tuổi, ban ngày lao động sản xuất, buổi tối sách đèn chai đến lớp học, đội ngũ giáo viên tình nguyện không có thù lao.

Về y tế: Trong kháng chiến chống Pháp, cũng như nhiều địa phương khác, Nam Giang chưa có trạm xá và hệ thống cán bộ y tế cơ sở. Công tác y tế thời điểm này chủ yếu là phòng bệnh. Cuộc vận động nhân dân ăn chín uống sôi, ngủ màn, vệ sinh cá nhân... được nhân dân đồng tình thực hiện, nhờ đó đã hạn chế được dịch bệnh.

Về công tác thông tin tuyên truyền: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang là địa phương có hoạt động thông tin tuyên truyền mạnh trong huyện. Bên cạnh các hội nghị của chi bộ, các đoàn thể như: Mặt trận Liên Việt, Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Phụ lão... nghe phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ, tin chiến thắng từ các mặt trận được quán triệt sâu sắc đến từng hội viên, đoàn viên. Hình thức tuyên truyền bằng băng zôn, khẩu hiệu, các chòi cảnh giới phát thanh cũng được duy trì. Những hoạt động trên đã giúp các tầng lớp nhân dân Nam Giang thấm nhuần đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng, toàn tâm toàn ý đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến thành công.

Công tác an ninh và bảo mật trừ gian: Do điều kiện địa lý, Nam Giang có hai tuyến giao thông huyết mạch chi viện nhân lực vật lực từ Khu IV lên miền Tây Thanh Hóa cho các mặt trận Tây Bắc và nước bạn Lào, trong vòng 7 năm (1947 - 1954), địa phương Nam Giang đón tiếp nhiều cơ quan của Khu III, Khu IV, của Tỉnh sơ tán về làm việc. Nhiều đơn vị bộ đội về điều dưỡng, học tập chỉnh huấn. Nam Giang cũng là nơi Nhà nước đặt kho tàng phục vụ cho tiền tuyến... Bởi thế công tác an ninh trật tự, bảo mật trừ gian được chi bộ, chính quyền hết sức quan tâm. Nhân dân thấm nhuần đường lối kháng chiến, thực hiện “ba không” (không biết, không nói, không chỉ), góp phần bảo vệ an toàn kho tàng, cơ quan, xí nghiệp về đóng trên địa bàn.

Năm 1952, vì thất bại về quân sự trên các mặt trận, nhằm triệt phá nguồn lực kinh tế địa phương chi viện cho tiền tuyến, thực dân Pháp cho máy bay ném bom phá hỏng đập Bái Thượng, làm mất nguồn nước tưới cho lúa và hoa màu 5 huyện trong tỉnh, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và giảm sức chi viện cho chiến trường.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, Nam Giang huy động hàng ngàn ngày công đào đắp ao hồ, đào giếng để có nước tưới cho lúa và hoa màu, chuyển diện tích cấy hai vụ lúa sang một vụ lúa một vụ màu, áp dụng biện pháp thâm canh, chăm bón để có năng suất phục vụ đời sống nhân dân và đóng góp lương thực cho Nhà nước.

Cũng trong năm 1952, một số tên địa chủ phản động liên kết với nhau phá hoại kinh tế. Một số đã lọt vào chính quyền các cấp, kích động quần chúng chống lại đường lối kháng chiến, chống lại chính sách thuế nông nghiệp, huy động dân công giảm tô, giảm tức... ở xã Thọ Hải hình thành hai tổ chức phản động là “Đại Việt” và “Bảo an đoàn”. Hai tổ chức này công khai chống lại chính sách thuế nông nghiệp và chính sách điều động nhân công.

Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy và Huyện ủy Thọ Xuân về việc phát động đấu tranh chính trị, cuối năm 1952, các xã Thọ Lộc, Thọ Ngọc, Xuân Phong, Thọ Dân, Xuân Thiên, Phú Yên... tiến hành đấu tranh chính trị. Trước khí thế đấu tranh của nhân dân, nhiều địa chủ cường hào đã hứa trước nhân dân ủng hộ kháng chiến, không tiếp tay cho bọn phản động chống phá cách mạng.

Tại Thọ Hải và Thọ Nguyên, quần chúng đã đấu tranh vạch trần bọn phản động theo tổ chức “Liên tôn diệt cộng” của Tuệ Quang, Tuệ Chiểu và các tổ chức phản động khác.

Cuộc đấu tranh chính trị đã thúc đẩy nhân dân Nam Giang hăng hái sản xuất, đóng góp tích cực sức người, sức của cho kháng chiến. Các chính sách thuế nông nghiệp, dân công được thực hiện nghiêm túc, uy thế của nhân dân lao động được đề cao, giai cấp địa chủ phong kiến từng bước bị đánh đổ.

Đầu năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân tổ chức cho nhân dân trong huyện đấu tranh giảm tô triệt để. Huyện chọn xã Thọ Long (nay là các xã Tây Hồ, Bắc Lương và Nam Giang) làm thí điểm và được các đồng chí Trần Cung, Bồ Xuân Luật - Ủy viên Thường vụ Quốc hội trực tiếp chỉ đạo.

Đấu tranh giảm tô thắng lợi ở Thọ Long, huyện đúc rút kinh nghiệm, tiến hành giảm tô triệt để toàn huyện và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để cải cách ruộng đất.

Trong vòng hai năm 1952 - 1953, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã lớn Thọ Long nói chung và nhân dân Nam Giang ngày nay nói riêng là đơn vị tiên phong trong việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, thuế công thương, đấu tranh chính trị và tiến hành giảm tô triệt để thắng lợi, đem lại quyền lợi cho nông dân, củng cố hậu phương vững mạnh, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Vai trò của nhân dân lao động ngày một nâng cao.

Do yêu cầu tăng cường quản lý hành chính cấp cơ sở, quản lý xã hội cấp xã (còn hạn chế về trình độ năng lực), từ tháng 8 năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, các xã lớn chia tách thành các xã nhỏ hơn. Ngày 21 tháng 8 năm 1953, xã Thọ Long được chia làm 3 xã: Tây Hồ, Bắc Lương và Nam Giang và dựa vào đặc thù địa lý tự nhiên để đặt tên xã. Phía tây của xã lớn Thọ Long gồm 3 làng Nam Thượng, Hội Hiền và làng Đống Nãi; giữa xã lại có hồ lớn nên đặt là xã Tây Hồ. Phía bắc xã Thọ Long có 4 làng: Mỹ Lý Thượng, Mỹ Lý Hạ, làng Trung Thôn và làng Nhuế Thôn là một trong những vùng đất trọng điểm cấy lúa và hoa màu nên đặt tên là xã Bắc Lương. Vùng đất phía nam của xã Thọ Long cũ gồm 5 làng cổ: Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong; đồng thời huyện điều chỉnh địa giới hành chính, cắt làng Phong Lạc thuộc xã Phong Phú (Xuân Phong ngày nay) và làng Kim Bảng xã Quả Nhuệ (nay là xã Thọ Lộc) về xã Nam Giang. Vùng đất này có sông Nông Giang, khởi nguồn từ Bái Thượng chảy qua, lại ở phía Nam của xã lớn Thọ Long nên đặt tên là Nam Giang. Như vậy, mặc dù đã chia tách nhưng mỗi xã đều để lại những kỷ niệm về xã lớn Thọ Long. Mặt khác, do phong tục tập quán sản xuất, văn hóa tín ngưỡng như nhau, lại là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng nên nhân dân đoàn kết gắn bó keo sơn và luôn đứng tốp đầu trong mọi phong trào cách mạng ở địa phương Thọ Xuân.

Xã mới Nam Giang ra đời đồng nghĩa với việc thành lập bộ máy hành chính, tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng. Với tinh thần tập trung nhân lực, vật lực cho kháng chiến, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính xã Nam Giang được thành lập, do ông Lê Đức Sinh (làng Phúc Thượng) làm Chủ tịch; ông Đào Văn Lực làm Phó Chủ tịch; ông Lê Trọng Thung phụ trách về quân sự; ông Lê Đình Tuynh (làng Cao Phong) phụ trách Nông hội (Hội nông dân); ông Lê Văn Sĩ phụ trách Mặt trận Liên Việt và các Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính xã, các tổ chức đoàn thể như: thanh niên, phụ nữ,... cũng được kiện toàn và đi vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

Cùng với việc kiện toàn bộ máy hành chính, các tổ chức quần chúng, Chi bộ Đảng Lao động Việt Nam xã lớn Thọ Long được chia làm 3 chi bộ. Ngày 25 tháng 8 năm 1953(1), Chi bộ Đảng xã Nam Giang được thành lập, do đồng chí Lê Trọng Sóc (làng Phúc Thượng) làm Bí thư Chi bộ.

Để đáp ứng nhu cầu kháng chiến, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đoàn và kế hoạch, hướng dẫn của Tỉnh đoàn Cứu quốc Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Huyện đoàn Thọ Xuân quyết định huy động mỗi xã 10 đoàn viên cứu quốc trở lên tham gia lực lượng Thanh niên xung phong. Lực lượng này gồm những đoàn viên có sức khỏe tốt, giác ngộ cách mạng cao, có ý thức kỷ luật và có trình độ văn hóa (biết đọc biết viết). Nam Giang có 10 người tham gia.

Cuối năm 1953, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước Xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc và củng cố, tăng cường sự đoàn kết của các đảng, quân đội 3 nước anh em thực hiện chủ trương của Đảng về phát động và tổ chức “Tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô”. Đợt sinh hoạt văn hóa văn nghệ này đã cuốn hút nhiều quần chúng tham gia, đủ các thành phần, lứa tuổi. Các bài hát được phổ biến nhất như “Yêu hòa bình Tổ quốc chúng ta”, “Tình hữu nghị Việt - Trung - Xô”.

Trong kháng chiến, máy bay Pháp không hoạt động vào ban đêm, do đó trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô ở Nam Giang, đình làng, sân chùa tối nào cũng tụ tập đông người, múa hát đèn đuốc sáng trưng. Qua đợt sinh hoạt văn hóa này, nhân dân hiểu thêm về quan hệ 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô. Nhân dân đoàn kết, tình quân dân thắm thiết, các phong trào đấu tranh giai cấp, sản xuất tiết kiệm, đi bộ đội, đi dân công... được đẩy mạnh thêm một bước.

Chín năm xây dựng và chiến đấu bảo vệ chính quyền nhân dân, chi bộ Đảng và nhân dân xã Nam Giang đã ghi vào lịch sử quê hương những dòng chói lọi. Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, nhân dân Nam Giang đã đón hàng trăm gia đình đồng bào tản cư từ ngoài Bắc vào, tạo điều kiện giúp đỡ về tinh thần và vật chất để đồng bào sớm ổn định cuộc sống và tham gia kháng chiến. Chi bộ và nhân dân Nam Giang đã ủng hộ tinh thần, vật chất và bảo vệ an toàn các cơ quan của Khu III, Khu IV, các cơ quan của Tỉnh sơ tán về địa phương và các đơn vị bộ đội về trú quân, đóng quân an dưỡng, chỉnh huấn trên địa bàn. Thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, chi bộ và chính quyền Nam Giang đã thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, huy động cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đó là các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”, “Hũ gạo tiết kiệm”, “Công trái quốc gia”, “Ủng hộ quỹ Đảng”, “Chăm sóc thương binh”, “Ủng hộ lúa kháng chiến”, “Chính sách thuế nông nghiệp”... Đấu tranh chính trị gắn liền với giảm tô, giảm tức triệt để, đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân lao động và đóng góp cho kháng chiến.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang có 136 thanh niên tình nguyện vào bộ đội; 67 thanh niên vào lực lượng Thanh niên xung phong; 869 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến, đợt ngắn từ 15 ngày đến một tháng; đợt dài từ 2 đến 4 tháng, phục vụ các mặt trận Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Thượng Lào và cuối cùng là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Máy bay Pháp cũng đã nhiều lần ném bom, bắn phá vào địa bàn xã Nam Giang làm chết và bị thương nhiều người, làm hư hỏng nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang có 15 liệt sĩ, 05 thương binh.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, do có nhiều công lao đóng góp, Nam Giang vinh dự được Đảng và Nhà nước công nhận 01 cán bộ lão thành cách mạng và hàng trăm Huân, Huy chương các loại, Bằng khen, Giấy khen của các cấp, các ngành cho tập thể và cá nhân.

Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tyến 17 làm giới tuyến tạm thời, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.


 

 

Chương IV

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ CẢI TẠO

VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG

MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

(1954 - 1975)

 

I. HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN CHỦ, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI (1954 - 1964)

Chiến thắng Điện Biên Phủ và sau đó là Hiệp định Giơnevơ đã đánh dấu sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Theo Hiệp định, nước ta tạm thời chia làm hai miền; miến Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự kiểm soát của các thế lực đế quốc và tay sai. Đế quốc Mỹ dần dần thay chân Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cản trở quá trình thống nhất hai miền Nam - Bắc, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miềm Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời kỳ này, cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh Hóa cũng phải đối mặt với những khó khăn, phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra, nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Tại miền Tây Thanh Hóa, bọn tàn quân Phỉ được sự tiếp tay của các thế lực phản động, đế quốc đã khôi phục lại tổ chức. Chúng đẩy mạnh các hoạt động quấy phá ở vùng cao Tam Chung, Quang Chiểu thuộc huyện Quan Hóa. Vừa rêu rao luận điệu xuyên tạc “Đầu năm hòa bình, cuối năm chiến tranh”, “Chế độ miền Bắc sưu cao, thuế nặng”, “Bên Lào hàng hóa rẻ, dễ mua”… làm giảm lòng tin đồng bào các dân tộc trong tỉnh đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu, hạ thấp ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng vừa bắt cóc uy hiếp cán bộ của ta ở cơ sở, làm cho nhân dân hoang mang.

Ở các vùng đồng bào Thiên chúa sống tập trung, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cở sở phá hoại lâu dài. Lợi dụng vào điều 14 D của Hiệp Định Giơnevơ quy định về chọn vùng, đổi vùng, chúng tung ra những luận điệu “Miền Bắc sẽ chết đói”, “Miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “Chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”… Bằng những thủ đoạn lừa bịp, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam.

Thọ Xuân là một trong những huyện có số giáo dân tập trung đông ở trong tỉnh (chiếm khoảng 8% dân số toàn huyện) chủ yếu ở các xã Quảng Phú, Xuân Sơn, Thọ Xương nằm trong tình trạng bất ổn đó.

Quán triết chỉ thị của Khu ủy khu 4 và chỉ thị của Tỉnh ủy Thanh Hóa, tuy xã Nam Giang không có giáo dân nhưng chi bộ và chính quyền xã vẫn triển khai chỉ thị của cấp trên, làm tốt công tác tuyên truyền và kêu gọi nhân dân cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của địch.

Tháng 9 năm 1954, mưa lớn dài ngày, nước ở đầu nguồn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao làm vỡ đê Liên Phô (xã Thọ Nguyên) và đê Căng Hạ (xã Thọ Trường). Do mưa lớn kéo dài cộng thêm đê sông Chu bị vỡ tràn vào làm toàn bộ lúa và hoa màu của xã Nam Giang nói riêng và phần lớn các xã trong huyện Thọ Xuân nói chung bị ngập lụt; hoa màu bị ngâm trong nước lâu ngày bị mất hết. Cuối năm 1954, đầu năm 1955, nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện. Trước tình hình cấp bách đó, Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” từ huyện đến xã, do đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện làm Trưởng ban, dưới xã do đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính xã làm Trưởng ban; đồng thời phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày, thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng gia đình, thôn xóm…

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, chi ủy chi bộ Đảng Nam Giang cùng với các tổ chức đoàn thể Mặt trận Liên Việt đã động viên nhân dân “lá lành đùm lá rách”, tích cực tăng gia sản xuất, chủ yếu là rau màu ngắn ngày.

 Với truyền thống cách mạng, tinh thần tương thân, tương ái, sự chỉ đạo sát sao của chi bộ, nạn đói từng bước được đẩy lùi, đời sống nhân dân ngày một ổn định.

Cùng với việc tích cực tăng gia sản xuất cứu đói…thời kỳ này nhân dân xã Nam Giang vinh dự được đón một đơn vị thông tin của Sư đoàn 330 về đóng quân trên địa bàn xã, đặc biệt là đón 5 thương binh gồm: ông Bùi Hưởng, ông Đặng Xuân Lộc, ông Nguyễn Văn Vinh, ông Nguyễn Văn Cối và ông Nguyễn Văn Dụng về làng chăm sóc, nuôi dưỡng theo chủ trương của Đảng và Chính phủ. Các anh bộ đội, thương binh được bà con đón nhận với tình cảm thắm thiết, chân tình; các đoàn thể quần chúng như thanh niên, phụ nữ đã tổ chức lễ kết nghĩa giữa hai đơn vị và tổ chức nhiều chương trình phối hợp hoạt động giao lưu thật thấm đượm tình quân dân trên mọi lĩnh vực. Tổ chức cho chị em tình nguyện xây dựng hạnh phúc gia đình với các anh thương binh.

Ngay sau hòa bình vừa lập lại, Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ủy ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sữa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thủy nông sông Chu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh ủy quyết định mở công trường tu sữa đập Bái Thượng và hệ thống thủy nông sông Chu. Để hoàn thành nhiệm vụ tỉnh đã huy động 22.000 dân công của các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỷ thuật, hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm và các loại vật liệu phục vụ công trường. Thọ Xuân là huyện sở tại, tỉnh điều động 5.000 dân công, mặc dù phải tập trung lực lượng tu sữa hệ thống kênh mương, đường giao thông nông thôn của xã và tham gia với lực lượng dân công của huyện đắp lại đoạn đê sông Chu bị vỡ (tháng 9/1954), Nam Giang vẫn cử hàng trăm lượt dân công tham gia công trường đập Bái Thượng. Các lực lượng tham gia lao động trên các công trường thi đua nhau làm việc, tăng năng suất vận chuyển, tăng định mức bình quân hàng ngày, vượt chỉ tiêu kế hoạch. Ngày 19 tháng 12 năm 1954, sau hơn 3 tháng lao động khẩn trương, việc sữa chữa đã đạt kết quả bước đầu, nước đã vào các hệ thống nông giang tưới tiêu cho đồng ruộng đang khô nẻ, kịp thời phục vụ cho vụ chiêm xuân năm 1955.

Song song với việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khắc phục hậu quả thiên tai, phát triển kinh tế, giao thông thủy lợi, Chi bộ và chính quyền rất quan tâm đến các hoạt động văn hóa - xã hội. Trường phổ thông cấp I xã Nam Giang được thực hiện chương trình giảng dạy phổ thông 10 năm. Thời kỳ này trường có 12 lớp với 600 học sinh. Từ năm 1954 đến năm 1959, thầy giáo Lê Viết Hòa quê xã Bắc Lương làm Hiệu trưởng. Từ năm 1960 - 1963, thầy Lê Đình Phiệt quê xã Hạnh Phúc làm Hiệu trưởng, thầy là nhà quản lý mẫu mực luôn được đồng nghiệp tin yêu, tín nhiệm, nhân dân kính trọng; hai năm liền thầy đạt chiến sĩ thi đua của ngành; năm học 1963 - 1964, thầy Lê Đình Thuật, quê xã Thọ Tân (Triệu Sơn ngày nay) làm Hiệu trưởng. Các thầy, cô giáo lúc đó bao gồm cả giáo viên dân lập và quốc lập. Năm 1960, lần đầu tiên trường được xây bằng gạch, mái ngói tại khu đồng Bài (khu trường chính bây giờ), nhưng vẫn không đủ phòng học, do vậy một số lớp phải đặt nhờ trong các nhà dân, đình và đền (khu I học ở nhà bà Mục Ngần; khu II đặt ở nhà bà Chỉ, ông Lý Chứ; khu III học ở đình Phong Lạc).

Tháng 9 năm 1959, theo Quyết định của UBND tỉnh, trường phổ thông cấp II xã Nam Giang được thành lập. Trường chỉ có 2 lớp gần 100 học sinh và 3 giáo viên do thầy Lê Viết Xiển người làng Phúc Như, xã Nam Giang phụ trách trường. Các thầy Phùng Gia Lộc, Lê Bá Nhì là những giáo viên đầu tiên của trường. Lớp học sinh đầu tiên đến từ 9 xã: Nam Giang, Thọ Lộc, Xuân Sơn, Xuân Phong, Tây Hồ, Xuân Quang, Xuân Khánh, Xuân Giang, Thọ Vực (bây giờ thuộc huyện Triệu Sơn). Song, do học sinh ít và cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học thiếu thốn, nên chỉ sau một năm trường phải sáp nhập với trường cấp II xã Bắc Lương.

Về công tác y tế: năm 1955, theo Chỉ thị số 05 liên tịch Bộ tài chính - Y tế ban hành hướng dẫn mỗi xã được thành lập một trạm y tế. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ và chính quyền địa phương, cuối năm 1955, trạm xá xã Nam Giang được thành lập gồm có 3 người, do ông Cao Như Ý - Y tá làm Trạm trưởng; ông Lê Cảnh Châu - vệ sinh viên và bà Lê Thị Luân, vệ sinh viên, làm công tác hộ sinh. Địa điểm Trạm xá đặt ở phía Bắc cầu Phúc Như. Trang thiết bị Y tế chưa có gì ngoài 2 chiếc panh và 1 chiếc kéo. Nhiệm vụ chủ yếu là truyên tuyền phòng bệnh sốt rét, đậu mùa, bệnh đau mắt đỏ, phòng bệnh tả và đỡ đẻ thông thường.

Ban văn hóa thông tin xã làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ. Phong trào văn hóa văn nghệ diễn ra sôi nổi, các làng đều có đội văn nghệ, với những tiết mục tự biên, tự diễn phê phán các thói hư, tật xấu do chế độ phong kiến để lại, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.

Để đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho đông đảo nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Ngay từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn đang tiếp diễn, Đảng và Chính phủ ta đã lãnh đạo đấu tranh thực hiện từng bước nhiệm vụ dân chủ: giảm tô, giảm tức... Ngay sau hòa bình lập lại một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên Đảng ta tiến hành là cải cách ruộng đất.

Thực hiện cuộc vận động cải cách ruộng đất của Đảng, đội quân công tác chính trị của huyện đã về các xã cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân chủ.

Đợt đầu (đợt thí điểm) tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc. Đợt 2, tiến hành ở các xã còn lại.

Nam Giang là một trong những xã tiến hành cải cách ruộng đất đợt 2. Rút kinh nghiệm các xã làm đợt đầu, đoàn cải cách về làm công tác tổ chức đưa ông Lộc lên làm Chủ tịch UBHC thay cho ông Sính đang làm Chủ tịch lâm thời, đồng thời thành lập đội cải cách của xã gồm 12 người, do ông Cần làm Đội trưởng, ông Trọng làm Đội phó. Chia mỗi xóm 1 người, cùng với đội quân công tác chính trị của huyện đã về từng xóm thực hiện 3 cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nhân dân. Lấy người nghèo làm trung tâm, nắm bắt một số cốt cán trong các thôn như: ông Lê Đình Tộ, ông Lê Văn Lương, ông Trịnh Xuân Đới, bà Lê Thị Bồ, bà Lê Thị Đởm, bà Lê Thị Xí… Với phương châm dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông, đánh đỗ giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột. Sau một thời gian “bắt rễ, sâu chuỗi”, lựa chọn cốt cán, phát động nhân dân đấu tranh tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất, nhà cửa, tài sản, dụng cụ lao động sản xuất của địa chủ cho nông dân.

Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở Nam Giang thắng lợi đã thực hiện được ước mơ ngàn đời (người cày có ruộng) của người dân, xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người, phân phối tư liệu sản xuất đồng đều cho nông dân. Tuy vậy, ở Nam Giang cũng như trình trạng chung của các địa phương khác đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm như quy định 5% tổng số hộ gia đình trong toàn xã là địa chủ. Một số gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bị quy lên địa chủ, gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng bị quy kết, đấu tố oan sai dẫn đến kết quả đau lòng. Tình hình đó đã làm cho nhân dân thiếu phấn khởi và không yên tâm sản xuất, gây ra mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân và làm cho không khí làng xóm có phần căng thẳng.

Trước tình nghiêm trọng đó, tháng 9 năm 1956, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm và đề ra chủ trương sữa sai.

Thực hiện chính sách sữa sai và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về cuộc vận động sữa sai trong cải cách ruộng đất. Được sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, chi bộ đảng và chính quyền xã Nam Giang đã thực hiện tốt công tác sữa sai, những người bị quy sai thành phần được sữa lại thành phần, được trả lại một phần tài sản và ruộng đất; một số đồng chí đảng viên được phục hồi, được trả lại đảng tịch. Ông Sính được trả lại chức Chủ tịch UBHC xã. Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố, nhân dân càng thêm tin tưởng trước tinh thần trách nhiệm của đảng, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, an ninh chính trị xã hội ở Nam Giang được ổn định.

Tháng 10 năm 1956, Hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc (thuộc huyện Triệu Sơn hiện nay) xác định nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: “Thực hiện Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất…nhanh chóng ổn định tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làm thủy lợi, chống hạn mở rộng diện tích cây lúa, đưa nông dân vào tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước”(1)

Sau hội nghị huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hằng ngày có từ 3.500 - 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường; hàng trăm dân công xã Nam Giang, hết đợt này đến đợt khác có mặt trên công trường làm nhiệm vụ bồi đắp đê sông Chu hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch huyện giao. Cùng với việc lãnh đạo toàn dân tham gia làm thủy lợi, đắp đê, chi bộ và chính quyền tổ chức cho nhân dân vào tổ đổi công, mỗi tổ gồm nhiều gia đình hợp tác, tương trợ nhau trong sản xuất trên cơ sở tự nguyện tham gia. Từ các tổ đổi công ban đầu, đến giữa năm 1958, phong trào tổ đổi công đã lan rộng ra toàn xã, bước đầu đưa người dân Nam Giang làm quen với mô hình làm ăn tập thể. Đây là mầm mống đầu tiên tạo cơ sở để tiến lên hình thức hợp tác cao hơn - hình thức tố chức hợp tác xã.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân khóa V (5/1958): “Cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẽ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao, hợp tác hóa phải gắn liền với cơ giới hóa và thủy lợi hóa. Đối với thương nghiệp, Đại hội đề ra chủ trương thành lập các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, thành lập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công”…Chi bộ Đảng và chính quyền xã Nam Giang thành lập Ban chỉ đạo vận động nông dân vào hợp tác xã, tổ chức cho nông dân học tập điều lệ hợp tác xã và chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hợp tác hóa nông nghiệp. Về việc thực hiện, chi bộ giao các đồng chí cán bộ, đảng viên là đầu tầu đi trước, đồng thời vận động những quần chúng tiên tiến làm nòng cốt viết đơn vào hợp tác xã để làm gương cho mọi người. Do làm tốt công tác vận động quần chúng, đến đầu năm 1959 xã Nam Giang đã thành lập 7 HTX Nông nghiệp bậc thấp đó là:

- HTX Phúc Thắng do ông Nguyễn Xuân Luận làm Chủ nhiệm;

- HTX Lưỡng Long do ông Phùng Đình Loa làm Chủ nhiệm, ông Lê Văn Thể làm phó Chủ nhiệm;

- HTX Xuân Tiên do ông Đào Long làm Chủ nhiệm;

- HTX Phong Phú do ông Lê Đình Vượng làm Chủ nhiệm;

- HTX Thành Công do ông Phạm Lê Đảng làm Chủ nhiệm;

- HTX Tân Thành do ông Lê Công Lô làm Chủ nhiệm;

- HTX Tân Tiến do ông Trịnh Xuân Bạn làm Chủ nhiệm.

Cơ chế quản lý của hợp tác xã bậc thấp là ruộng đất, trâu bò, nông cụ là sở hữu của tư nhân, trích từ hoa lợi ruộng đất 20% trở lên, còn lại chia đều cho ngày công lao động.

Lúc đầu mới có khoảng 80% số hộ nông dân vào hợp tác xã, nhưng do hợp tác được mùa nhiều vụ liên tiếp, nên đời sống xã viên được nâng cao. Đến năm 1962, gần 100% số hộ nông dân ở Nam Giang làm đơn vào hợp tác xã nông nghiệp.

Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, cấp ủy và chính quyền xã Nam Giang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thành lập hai hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng.

Hợp tác xã mua bán nguồn vốn do xã viên đóng góp, lúc mới thành lập do ông Lê Trọng Cằm làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã mua bán ra đời phục vụ các mặt hàng nhu yếu phẩm, thực phẩm; đồng thời thu mua các mặt hàng nông sản của nông dân nhập cho Nhà nước, nhân dân trong xã không phải đi chợ xa, tránh được tư thương ép giá mua bán. Hoạt động của Hợp tác xã mua bán đã mang lại nhiều lợi ích cho tập thể và người nông dân.

 Cùng với Hợp tác xã mua bán, Hợp tác xã tín dụng xã Nam Giang cũng được thành lập, do ông Lê Đình Tớn (làng Phong Lạc 1) làm Chủ nhiệm đầu tiên. Sự ra đời của Hợp tác xã tín dụng đã thu hút được đồng tiền nhàn rỗi trong nhân dân đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản. Do quản lý đồng vốn chặt chẽ, nên hợp tác xã và xã viên đều có lãi, nhân dân tin tưởng, phấn khởi gửi tiền vào tiết kiệm ngày một nhiều hơn.

Cũng trong thời gian này, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự(1) đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân, Ủy ban hành chính xã Nam Giang đã tiến hành đợt tuyên truyền, học tập sâu rộng trong chi bộ và quần chúng nhân dân, làm cho mọi người nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Qua đợt học tập, ý thức quốc phòng của nhân dân được nâng lên, đặc biệt là thanh niên và học sinh; sau đợt học tập này 100% đoàn viên, thanh niên trong xã đăng ký tham gia khám sức khỏe. Đợt tuyển quân thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đầu tiên, xã Nam Giang có các ông Lê Viết Trọn (làng Phú Gia), ông Chiêu (làng Kim Bảng), ông Lê Viết Hạt (xóm Phong Cốc, làng Phong Lạc), ông Lê Đình Giáp (xóm Phong Thịnh, làng Phong Lạc) lên đường nhập ngũ.

Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao cũng được xã đầu tư quan tâm. Vào các ngày lễ Quốc khánh, tết Trung thu hoặc những ngày tổ chức các sự kiện của làng…đều tổ chức liên hoan văn nghệ, giao lưu với đơn vị bộ đội thông tin Sư đoàn 330, với những tiết mục ca, múa hát truyền thống hoặc tự biên được các ca sĩ không chuyên của các làng, của các anh bộ đội biểu diễn, thể hiện cuộc sống mới đang ngày một thay da, đổi thịt trên quê hương. Phong trào văn hóa - văn nghệ được huyện đánh giá là một trong những lá cờ đầu của huyện. Thời kỳ này đội văn nghệ của xã không chỉ biểu diễn phục vụ bà con trong xã mà còn đi lưu diễn nhiều nơi trong và ngoài huyện.

 Song hành cùng với những hoạt động văn hóa, văn nghệ là phong trào thể dục thể thao. Có thể nói, hoạt động thể dục thể thao ở Nam Giang là một trong những điểm sáng của huyện, cứ chiều về các sân phơi của các hợp tác xã lại sôi nổi thi đấu bóng chuyền, hoặc bóng đá; đặc biệt vào dịp ngày lễ kỷ niệm quốc khánh (2/9) xã lại tổ chức thi đấu bóng đá, bóng chuyền giữa các làng với nhau, giữa các đội bóng của xã với đội bóng của đơn vị bộ đội đóng quân trên địa xã, tạo nên một không khí thật vui tươi, phấn khởi ở địa phương.

Thực hiện đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9 năm 1960) và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ V (tháng 3 năm 1961). Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân, chi bộ và chính quyền xã Nam Giang đã tổ chức nhiều hoạt động thi đua sôi nổi nhằm thực hiện 3 cuộc vận động cách mạng: “Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa”, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Nhận thức đúng đắn về 3 cuộc vận động cách mạng của Đảng. Đảng bộ và chính quyền xã Nam Giang chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng, nâng cao nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước.

Để tiếp thu khoa khoa học kỹ thuật phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Nam Giang đã cử nhiều người đi học trường bổ túc công nông, bổ túc văn hóa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trẻ. Đồng thời tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai 3 cuộc vận động của tỉnh “Ba xây, Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp tác xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi”.

Thực hiện cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã”, đầu năm 1963, Ủy ban hành chính xã Nam Giang tiến hành sắp xếp tổ chức lại mô hình hợp tác xã, đưa các hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao (mỗi khu là một hợp tác xã, công hữu hóa ruộng vườn, trâu bò, nông cụ), thực hiện phân phối theo mức lao động, với tinh thần làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; kiện toàn lại Ban quản trị, Ban chủ nhiệm hợp tác xã ở 3 khu đó là:

- Hợp tác xã Phúc Thắng (Khu I) do ông Nguyễn Xuân làm Chủ nhiệm;

- Hợp tác xã Phong Phú (Khu II) do ông Lê Đình Tùy làm Chủ nhiệm;

 - Hợp tác xã Tân Tiến và Hợp tác xã Tân Thành sát nhập lại gọi là HTX Thống Nhất, đến năm 1964 đổi tên là Hợp tác xã Hồng Lạc (Khu III), Ban chủ nhiệm gồm có 3 người do ông Lê Công Phong (Phong Lạc 2) làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Thành Kế (Phong Lạc 1) và ông Lê Công Lô (Phong Lạc 3) làm Phó Chủ nhiệm.

Việc xây dựng hợp tác xã bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội mới ở nông thôn Nam Giang. Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao vào đồng ruộng như: lúa Quyết Tâm, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Nam Ninh thay thế toàn bộ giống cũ như: lúa Mùa đỏ, lúa Gié, lúa Hiên… đã thoái hóa, năng suất thấp; đồng thời công tác thủy lợi được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, hệ thông kênh mương tưới tiêu nước cho đồng ruộng được đảm bảo, cùng với các chiến dịch làm phân bắc, phân xanh, phân bùn, bèo hoa dâu được phát động rộng rãi trong toàn dân. Các phương tiện lao động sản xuất cũng được cải tiến như: xe kiến an, cày 51, cào cỏ Nghệ An thay thế công cụ lao động lạc hậu kém năng suất; xe cải tiến, xe bò đã giải phóng đôi vai người nông dân…Nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp, năm 1962, cả 3 vụ lúa và màu ở Nam Giang đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của người dân Nam Giang đạt trên 300kg/đầu người/năm. Đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hóa, tinh thần đang dần được nâng cao, quan hệ sản xuất mới cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ, tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tháng 12 năm 1962, Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII, Đại hội đề ra những nhiệm vụ trọng tâm của những năm tiếp theo là: “Xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ cơ sở chức Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng ủy xã và mở rộng các lớp đối tượng kết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên”(1).

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, đầu năm 1963, Chi bộ Đảng xã Nam Giang được chuyển thành Đảng bộ. Đảng bộ có 94 đảng viên, sinh hoạt trong 7 chi bộ gồm: Chi bộ Phúc Thượng, Phúc Hạ; Chi bộ Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc 1, Phong Lạc 2. Đồng chí Lê Trọng Thung (Phú Gia) đang giữ chức Bí thư chi bộ xã Nam Giang (1960 - 1962) tiếp tục được bầu làm Bí thư BCH Đảng bộ đầu tiên của xã.

Đảng ủy ra đời, đánh dấu một bước phát triển của tổ chức Đảng vững mạnh trên quê hương Nam Giang. Ngay sau khi thành lập, Đảng ủy đã tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng xuống từng chi bộ, nâng cao chất lượng đạo đức đảng viên, củng cố kiện toàn các tổ chức đoàn thể.

Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965), thực hiện Nghị quyết đại hội huyện Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VIII tháng 3 năm 1963. Về nông nghiệp, Đảng bộ thường xuyên cử cán bộ các hợp tác xã, các đội trưởng đội sản xuất đi học bồi dưỡng về chính trị và chuyên môn; chỉ đạo các hợp tác xã thực hiện 3 khoán: khoán cho nhóm, khoán công việc và khoán công điểm.

Trong những năm 1963 - 1964, thực hiện cuộc vận động cải tiến hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa Hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Thời kỳ này, Nam Giang có đội máy kéo, máy cày của huyện đóng trên địa bàn xã để phục vụ phát trển sản xuất nông nghiệp trong khu vực. Sự xuất hiện của đội máy cày, máy kéo đã góp phần kiến tạo lại bờ vùng, bờ thửa, cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa nông nghiệp đi vào sản xuất lớn, đưa vụ đông trở thành nổi tiếng trên địa bàn Nam Giang “Khoai Phong Lạc, Bạc Ngân hàng”; đưa giống lúa mới có năng suất cao vào sản xuất (Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn), thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng vụ đông, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng… nên bình quân lương thực đầu người trong 2 năm 1964 - 1965 ở Nam Giang lên 350kg/năm. HTX Tân Thành (Phong Lạc 2) là hợp tác đạt hơn 5 tấn thóc/ha đầu tiên của Nam Giang. Hằng năm hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch lương thực, thực phẩm Nhà nước giao.

Từ 1962 - 1964, thực hiện nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”, Đảng bộ Thọ Xuân đã phát động nhân dân ở một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện và một số huyện miền núi Thường Xuân, Ngọc Lặc”(1).

Là một trong những xã đông dân của huyện, thực hiện chủ trương của tỉnh, năm 1963 Nam Giang có khoảng 15 hộ ở hai thôn Phúc Thượng, Phúc Hạ định cư đến khu vực Đồng Đình, làng Bích Phương, xã Xuân Đài, nay là xã Xuân Sơn.

Để bà con định cư sớm ổn định cuộc sống, yên tâm lập nghiệp nơi đất mới, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền xã Nam Giang, các hợp tác xã giúp bà con vận chuyển nhà cửa, dụng cụ sản xuất, cấp một năm lương thực, giống cây trồng, phân bón…đến nơi ở mới lại được chính quyền và nhân dân địa phương sở tại giúp đỡ tận tình, do đó bà con rất yên tâm phấn khởi, tích cực phấn đấu xây dựng quê hương mới.

Giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), tháng 3 năm 1964, tổng thống Mỹ Giôn - Xơn phê chuẩn kế hoạch Đê-Xô-tô dùng tàu khu trục Mỹ tuần tiểu ở Vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn sự tiếp tế đường biển của ta, yểm trợ cho hoạt động của các tàu biệt kích Ngụy vây bắt ngư dân đánh cá để khai thác tin tức tình báo. Trung tuần tháng 4, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã vạch kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu đánh phá, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm.

Nhận định tình hình địch, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng họp phê chuẩn tình hình nhiệm vụ và hướng dẫn những việc làm gấp của công tác phòng không nhân dân.

Ngày 14 tháng 3 năm 1964, Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa quyết định thành lập hệ thống tổ chức, chỉ đạo phòng không nhân dân ở các cấp do chủ tịch Ủy ban hành chính và thủ trưởng cơ quan các ban ngành làm Chủ nhiệm. Thành phần Ban phòng không các cấp gồm có Quân sự, Công an, Y tế và đại diện các ban, ngành đoàn thể. Ban Phòng không nhân dân xã Nam Giang được thành lập, đồng chí Đào Văn Long, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, làm Trưởng ban, các đồng chí Trịnh Xuân Đới, xã đội trưởng; đồng chí Lê Quý Đôn, Trưởng trạm y tế xã và đồng chí phụ trách công an xã là ban viên.

Ban phòng không nhân dân có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức nhân dân đào hầm hố cá nhân, giao thông hào ở những nơi công cộng và đường làng, ngõ xóm trong toàn xã và từng gia đình, đảm bảo an toàn tài sản, tính mạng cho nhân dân.

Trước những âm mưu điên cuồng mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta của đế quốc Mỹ. Ngày 27 và 28 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Đây là Hội nghị “Diên Hồng” ở thời đại Hồ Chí Minh. Tại hội nghị này, Bác đã khẳng định ý chí sắc đá của nhân dân ta: “Nếu chúng liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì chúng nhất định sẽ thất bại”. Bác khẩn thiết kêu gọi quân và dân miền Bắc phải nêu cao chí khí phấn đấu hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, củng cố quốc phòng, luôn luôn cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hết lòng, hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam, “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”([13]).

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 4 năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy ra chỉ thị: “Hãy sẵn sàng và kiên quyết đập tan mọi hành động phá hoại, khiêu khích của đế quốc Mỹ và bè lũ tai sai, kịp thời ngăn chặn mọi hành động chống phá của bọn phản cách mạng”([14]).

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện và các phòng ban chức năng, Đảng bộ và nhân dân Nam Giang đã chuyển mọi hoạt động sản xuất từ thời bình sang thời chiến. Trước hết tổ chức cho nhân dân, từng gia đình đào hầm trú ẩn, đào hầm hào ở những nơi công cộng, lập các trạm gác báo động phòng không, tích cực bảo mật, phòng gian, xây dựng lực lượng dân quân, đăng ký quân dự bị, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu và thủ đoạn đánh phá, phá hoại của kẻ thù.

 Mười năm xây dựng trong hòa bình (1954 - 1964), Chi bộ, Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn gian khổ, đạt được nhiều kết quả trên lĩnh vực khôi phục kính tế (1955 - 1957), cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961 - 1965) đã làm cho đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội trên quê hương Nam Giang “thay da đổi thịt”, nền quốc phòng toàn dân được củng cố và có bước phát triển đáp ứng yêu cầu thời bình, chuẩn bị cho thời chiến đánh thắng kẻ thù.

Tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, truyền thống cần cù trong lao động sản xuất, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang vững bước đi vào thời kỳ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và bảo vệ vững chắc địa phương, đồng thời cùng với Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân làm tròn trách nhiệm chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, cùng đồng bào, chiến sĩ miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước.

II. NHÂN DÂN NAM GIANG VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU VÀ CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1965 - 1975)

Bước vào năm 1965, sau sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, mở đầu âm mưu leo thang chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa hàng trăm lượt chiếc máy bay, hàng chục lượt tàu chiến ném bom bắn phá cầu Đò Lèn, cầu Hàm Rồng, bến phà Ghép... trên Quốc lộ 1A, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Với tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, quân và dân tỉnh ta đã mưu trí, dũng cảm đánh trả quân xâm lược Mỹ và giành thắng lợi oanh liệt. Trong hai ngày 47 máy bay hiện đại “Thần sấm, con ma” Mỹ bị bắn rơi cùng nhiều giặc lái bị tiêu diệt, bị bắt sống.

Trước âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ IX (đầu năm 1965), Đảng bộ và chính quyền xã Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị thế trận toàn dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng làng xã chiến đấu, lập trạm báo động phòng không sơ tán, bảo đảm trật tự an ninh, củng cố xây dựng lực lượng dân quân, mỗi hợp tác xã tổ chức một đại đội dân quân vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng thời sẵn sàng làm nhiệm vụ ứng cứu khắc phục hậu quả bom đạn địch. Thành lập một trung đội dân quân trực chiến gồm có 34 người thường xuyên trực chiến 24/24 giờ, bảo vệ trọng điểm cầu Phúc Như, bảo vệ đường 47 B trên địa bàn xã; được trang bị vũ khí và huấn luyện kỹ thuật bắn máy bay bay thấp. Đây là lực lượng thường trực sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở địa phương và sẵn sàng đi tăng cường cho các địa bàn trọng điểm Bái Thượng, Bàn Thạch khi cấp trên yêu cầu. Các đại đội, trung đội dân quân thường xuyên được tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chuyển mọi hoạt động của địa phương từ thời bình sang thời chiến, sơ tán trường học, kho tàng vào địa điểm an toàn. Kiểm tra hệ thống hầm hào trú ẩn ở trường học, chợ và những nơi công cộng đông người…

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công tác thủy lợi, học tập biện pháp thâm canh, tăng vụ của Hợp tác xã Thắng Lợi (Xuân Thành) và Đông Phương Hồng (Thọ Hải), phấn đấu đạt 5 tấn thóc/ha/năm; chăm sóc cây màu lương thực như: ngô, khoai; cây công nghiệp thực phẩm như: Lạc, vừng, đậu các loại…thực hiện tốt lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”.

Thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự thời chiến(1), đợt đầu năm 1965, Nam Giang có 35 thanh niên gia nhập quân đội, tình nguyện vào Nam chiến đấu, trong đó có 10 người tái ngũ.

Thực hiện quyết định của Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc mở công trường 101 xây dựng sân bay Sao Vàng, sân bay quân sự trên địa bàn Thọ Xuân. Toàn tỉnh đã huy động 10.000 thanh niên xung phong, huyện nhỏ 2 đại đội, huyện lớn 3 đại đội. Riêng Thọ Xuân 4 đại đội cùng 500 công nhân lái máy ủi và ô tô vận tải.

Để phục vụ thi công tỉnh còn giao cho huyện Thọ Xuân huy động 3.000 người khai thác, vận chuyển 5.000m3 cát vàng, thành lập công trường khai thác đá ở núi Trẩu, huy động 600 công nhân, một máy khoan đá, một máy xay đá, cung cấp 5.000m3 đá từ 2 ly đến 6 ly cho công trường.

Thực hiện quyết định của Chính phủ và nhiệm vụ tỉnh giao cho huyện, xã Nam Giang huy động hàng trăm lượt người tham gia tại công trường 101 và hơn 40 người cùng xe trâu bò tham gia chở cát từ bãi cát Thọ Hải về phục vụ công trường thi công… Hơn một năm cùng với các đơn vị bạn lao động khẩn trương, đến tháng 6 năm 1966 thì hoàn thành nhiệm vụ. Các lực lượng của Nam Giang tham gia trên các công trường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huyện giao, được Ủy ban hành chính huyện biểu dương, khen thưởng.

Sau khi tổ chức một trận đánh lớn vào Lèn, Hàm Rồng, phà Ghép trong 2 ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, bị thất bại, đế quốc Mỹ phải tạm dừng đánh phá Thanh Hóa một thời gian ngắn, cuối tháng 4 năm 1965, chúng bắt đầu đánh phá trở lại Thanh Hóa quyết liệt hơn.

Ngày 27 tháng 4 năm 1965, máy bay giặc Mỹ bắn 18 quả Rốc két xướng khu vực Sao Vàng, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân trên đất Thọ Xuân. Tiếp đó, chỉ trong vòng hơn một tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại giặc Mỹ đã dội bom xuống nhiều khu vực trọng điểm kinh tế, giao thông vận tải, mục tiêu quân sự trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Tháng 5 năm 1965, máy bay giặc Mỹ ném bom bắn phá đê Xuân Tín làm chết 22 người. Tiếp đó là những trận đánh phá vào những nơi tập trung đông người như: chợ Đường (Tứ Trụ) xã Thọ Diên, nhà thờ Hữu Lễ (Thọ Xương), phố Bái Thượng xã Xuân Bái…

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết cấp trên, ngày 18 tháng 6 năm 1965, Huyện ủy Thọ Xuân ra nghị quyết về chuyển hướng lãnh đạo trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra ba nhiệm vụ trọng tâm là:

- Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa. Mục tiêu toàn huyện đạt 5 tấn thóc/ha/năm. Duy trì và phát triển nhân rộng điển hình tiên tiến trên mặt trận sản xuất nông nghiệp.

- Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ mạnh để phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng ở địa phương, bảo vệ tính mạng tài sản của Nhà nước và nhân dân.

- Tuyên truyền giáo dục toàn dân thấm nhuần đường lối quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Triển khai thực hiện nghị quyết của Huyện ủy, Đảng bộ Nam Giang đã tổ chức học tập và quán triệt tinh thần nghị quyết đến từng đảng viên trong Đảng bộ, chủ nhiệm các hợp tác xã, trưởng các ban, ngành đoàn thể…

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp: Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã tập trung thâm canh tăng vụ, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật trong các khâu cơ bản như: thủy lợi, phân bón, giống, kiến thiết đồng ruộng… do vậy, sản lượng lương thực toàn xã ngày một tăng. Đi đôi với trồng trọt, chăn nuôi lợn có bước phát triển khá, đến cuối năm 1965, tỷ lệ đầu lợn tăng lên 2 con/ha gieo trồng… thành tích đó đã đưa ngày công lao động của xã viên được nâng cao, đời sống nhân dân trong xã ổn định, nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đóng góp cho Nhà nước luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

Lực lượng dân quân được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, được trang bị thêm súng máy cao xạ 12,7 ly, được huyện đội cử cán bộ về huấn luyện các thao tác kỹ thuật bắn máy bay bay thấp. Qua thời gian học tập trung đội dân quân trực chiến đã biết sử dụng thành thạo súng. Từ đây, trung đội dân quân trực chiến của xã có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bắn máy bay địch bảo vệ địa phương, đồng thời phối hợp với đơn vị dân quân trực chiến các xã Xuân Sơn, Bắc Lương, Tây Hồ chiến đấu bảo vệ trọng điểm nhà máy thủy điện Bàn Thạch, bảo vệ đoạn đường 47 qua xã; sẵn sàng chi viện đi chiến đấu ở các trọng điểm khác trong huyện khi cấp trên yêu cầu.

Năm 1966, địch đánh phá ngày một ác liệt vào những trọng điểm trên đất Thọ Xuân và đánh bừa bãi vào các khu dân cư, điển hình là trận oanh tạc vào Hợp tác xã Đông Xuân (Xuân Khánh), lúc 11 giờ 30 phút ngày 23 tháng 4 năm 1966, vào lúc đang nghỉ trưa thì 3 chiếc máy bay F4H từ hướng Đông Nam bay tới, lượn một vòng rồi nhào xuống ném 18 quả bom, bắn 9 quả đạn Rốc két và hai loạt đạn 20 ly, làm chết 31 người (trong có 2 cụ già, 20 trẻ em, 9 phụ nữ), có gia đình chết 4 em bé, có em mới 2 tuổi bị mảnh bom cắt ngang rốn…khoảng 40 ngày sau, khi nhân dân mới đi làm đồng về, chúng lại cho 2 máy bay đến ném bom, làm chết và bị thương 29 người. Tội ác tày trời này càng nhân lên gấp bội, lòng căm thù của mọi người dân đối với đế quốc Mỹ xâm lược.

Trước tình hình đó, Đảng bộ xã Nam Giang đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Đảng viên và quần chúng nâng cao nhận thức về âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, gia cố hầm hào trú ẩn, coi hầm là nhà, nhằm hạn chế thương vong đến mức thấp nhất nếu máy bay địch ném bom bắn phá vào xã. Củng cố lực lượng dân quân, nêu cao vai trò nòng cốt xung kích trên các mặt trận lao động sản xuất ở địa phương.

Càng thua đau, thủ đoạn đánh phá của địch càng liều lĩnh và trắng trợn hơn, bất chấp mọi sự lên án, phản đối của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Năm 1967, đế quốc Mỹ đánh vào khu vực đông dân cư nhiều hơn. Đối với Thọ Xuân, chúng cũng không trừ một thủ đoạn nào, một trong những tội ác tày trời đó là: Chiều ngày 22 tháng 7 năm 1967, lợi dụng thời tiết sấu, trời mưa nhỏ, địch cho một tốp máy bay từ hướng Đông Nam bay qua vùng Thiệu Hóa vào đánh lén Nhà máy điện Bàn Thạch, bị trận địa cao xạ phía Bắc nhà máy nổ súng đánh trả không cho chúng ném bom bắn phá mục tiêu. Không đạt được mục đích, máy bay Mỹ liền chếch đầu về hướng Sao Vàng ném bom, làm 16 người dân Hợp tác xã Thống Nhất (Xuân Quang) đang làm cỏ lúa trên đồng bị chết và đê chi giang 8 bị hỏng. Để khắc phục hậu quả bom đạn địch, huyện đã huy động lực lượng dân quân các xã, trong đó có trung đội dân quân xã Nam Giang tham gia đắp đê, chỉ trong một thời gian ngắn đã hàn khẩu được đoạn đê bị vỡ, cứu được hàng trăm ha màu của nhân dân.

Căm thù lũ giặc trời đến bắn phá quê hương, ngày 9 tháng 9 năm 1967, tổ dân quân trực chiến trận địa pháo phòng không 12 ly 7 bảo vệ cầu Phúc Như gồm 7 đồng chí dân quân xã Nam Giang và 4 đồng chí dân quân xã Bắc Lương(1), do đồng chí Bùi Văn Hưởng - Xã đội phó chỉ huy đã độc lập chiến đấu bắn rơi 1 máy bay giặc Mỹ.

Hôm đó, khoảng 15 giờ chiều trời mưa nhẹ, một chiếc máy bay từ hướng Tây bay đến vùng Sao Vàng liền bị lực lượng phòng không tại đây nổ súng, hai chiếc đi về hướng Tây Nam, một chiếc A4 tách khỏi đội hình, lợi dụng thời tiết xấu lao xuống ném bom đánh phá cầu Phúc Như.

Với tinh thần cánh giác cao độ, tổ trực chiến đã sớm phát hiện mục tiêu, kịp thời nổ súng chính xác, chiếc máy bay bốc cháy và lao ra biển, xác nó rơi xuống bên ngoài Lạch Trường([15]). Bom nổ gần cách trận địa chừng 25m làm một số đồng chí bị mảnh bom và đất đá bắn vào bị thương.

Sau trận đánh, các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện, Ban CHQS huyện Thọ Xuân và các ban, ngành Huyện ủy, Ủy ban đến thăm hỏi, động viên và tặng quà chúc mừng. Thắng lợi đã có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần thi đua chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong các đơn vị dân quân toàn huyện.

Ngày 2 tháng 10 năm 1967, huyện đã tổ chức hội nghị biểu dương dân quân tự vệ gương mẫu toàn huyện, tổ dân quân trực chiến xã Nam Giang và Bắc Lương bảo vệ cầu Phúc Như được biểu dương, khen thưởng và cử đại biểu đi dự Đại hội biểu dương các đơn vị bắn máy bay giỏi toàn quân khu. Được Bộ Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn tặng Bằng khen và thủ tướng Chính phủ tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba([16]).

Cay cú vì thất bại, ngày 21 và 22 tháng 8 năm 1968, máy bay địch liên tiếp đánh phá Âu Phong Lạc (Nam Giang), Nhà máy thủy điện Bàn Thạch (Xuân Quang) và nhiều nơi khác, làm công trình bị hư hỏng nặng, làm mất nguồn nước tưới tiêu cho 6 ngàn ha lúa trong tỉnh đang thời kỳ trổ bông, huyện huy động hàng ngàn lao động, chủ yếu là lực lượng dân quân. Để hoàn thành nhiệm vụ huyện giao, Nam Giang đã huy động toàn bộ 3 đại đội dân quân và nhân dân trong xã cùng với các đơn vị bạn ra công trường, làm việc không quản ngày đêm, bom đạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huyện giao. Sáng ngày 02 tháng 9 năm 1968, Âu Phong Lạc kịp thời đưa nước tưới cho những cánh đồng đang khô hạn. Ngoài ra, dân quân và thanh niên Nam Giang còn tham gia san lấp hố bom ở sân bay Sao Vàng, Quốc lộ 47 đoạn qua Thọ Xuân, đê nông giang Bàn Thạch, đê sông Chu với số lượng hàng ngàn ngày công.

Về công tác phục vụ chiến đấu và bảo đảm giao thông: Các đơn vị dân quân của các hợp tác xã vừa là lực lượng nòng cốt trong sản xuất vừa là lực lượng tiên phong trong công tác phục vụ chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ ứng cứu khắc phục hậu quả các trận ném bom của giặc Mỹ. Có lần máy bay giặc Mỹ ném bom trúng đường, lực lượng dân quân trong xã đã kịp thời cứu và giải phóng được 2 xe đạn pháo, chỉ trong vòng một đêm đã khắc phục xong đường để các đoàn xe tiếp tục đi ra tiền tuyến.

Khi cầu Phúc Như bị máy bay ném sập, nhân dân trong xã không những đóng góp công sức san lấp hố bom mà còn ủng hộ hơn 500 cây gỗ xoan, hàng ngàn cây tre để khắc phục cầu, bảo đảm giao thông trên địa bàn xã liên tục thông suốt.

Trên địa bàn xã có các trận địa trực chiến của bộ đội và dân quân, xã đã thành lập một đội tiếp tế, động viên thăm hỏi kịp thời; tổ chức lực lượng đi tham gia đào đắp công sự cho các trận địa pháo, Ra đa của bộ đội ở sân bay Sao Vàng và của địa phương, san lấp hố bom trên trục đường 47 với hàng ngàn ngày công…

Thành lập một đội cứu thương gồm 15 người, chia làm 3 tổ kịp thời cứu chữa người bị thương và vận chuyển những người bị thương nặng lên tuyến trên.

Xã đã dành 3 khu kho HTX và hàng trăm gia đình đã nhường nhà ở cho các đơn vị quân đội Sư đoàn 308, 330 về nghỉ ngơi và luyện tập; các cơ quan Tỉnh đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Liên hiệp công đoàn tỉnh sơ tán về làm việc. Trong đó, Tỉnh đoàn Thanh Hóa ở Phong Lạc 3, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh ở Phong Lạc 1, Phong Lạc 2… Đặc biệt là từ năm 1968, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nam Giang được đón các thương binh thuộc Đoàn an dưỡng 585 về an dưỡng tại địa phương; Toàn xã có 120 gia đình đã nhường nhà ở làm kho chứa lương thực sơ tán của Nhà nước trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt của máy bay giặc Mỹ.

Trên mặt trận sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi: Chiến tranh xảy ra ngày một ác liệt, chiến trường càng đánh mạnh, thắng lớn thì đòi hỏi sự chi viện sức người, sức của ngày một nhiều, đa số thanh niên trai trẻ là lên đường ra trận trực tiếp cầm súng chiến đấu với quân thù, hoặc đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, vận chuyển hàng chi viện ở các chiến trường B, C, K. Số ở lại hậu phương phần lớn là tuổi trung niên thì tham gia lực lượng dân quân vừa vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu…Lực lượng lao động chính chỉ còn lại người già, phụ nữ và trẻ em, bình quân mỗi lao động phải đảm nhận hàng mẫu ruộng.

Từ thực tế đó, Đảng bộ đã khơi dậy các phong trào cách mạng như: “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ, “Phụ lão mẫu mực” của Mặt trận Tổ quốc. Lấy đảng viên làm nòng cốt cho mọi phong trào cách mạng ở địa phương. Phát động phong trào “Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”; các hợp tác xã tăng cường khoán việc, khoán hộ… phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 10 tấn khoai lang, 2 con lợn trên một ha... Nhờ làm tốt công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, tích cực chăm bón các loại cây trồng, do vậy sản lượng lương thực của xã Nam Giang từ 750 tấn (năm 1965) lên 1.500 tấn (1968). Đàn lợn từ 1.200 con (1965) lên 2.000 con (năm 1968)… Từ năm 1965 đến năm 1967, Nam Giang luôn hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước.

Công tác tuyển quân chi viện chiến trường luôn được Đảng bộ quan tâm và xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của địa phương, vì vậy Đảng bộ luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, động viên con em mình lên đường tòng quân giết giặc, đồng thời làm tốt các công tác chính sách hậu phương quân đội, tổ chức thăm hỏi các gia đình có con em đang chiến đấu ở chiến trường xa, các gia đình thương binh, liệt sĩ để làm yên lòng những người ra đi… Do đó, nhiệm vụ tuyển quân hằng năm Nam Giang luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Sau 5 năm về chung một mái trường cấp II Bắc Lương (từ năm 1960 - 1965, Trường cấp II Bắc Lương gồm các xã: Bắc Lương, Nam Giang, Xuân Quang, Tây Hồ, Xuân Phong, Thọ Lộc do thầy Dương Duy Chương, người Hà Nội làm Hiệu trưởng; các thầy, cô giáo phần lớn là người trong tỉnh). Chiến tranh xảy ra ác liệt, để đảm bảo an toàn cho thầy và trò, theo chủ trương của trên, trường cấp II Bắc Lương phải chia học sinh về lại các xã. Từ một trường lớn chia về các xã, thầy trò không thể mang theo vườn địa lý, vườn thí nghiệm, sân thể dục có cầu thăng bằng, xà đơn, xà kép…Cũng từ năm học 1965 - 1966, trường cấp II xã Nam Giang chính thức được thành lập theo Quyết định số 2922/QĐ-UBVX ngày 15 tháng 4 năm 1965 của Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hóa. Do chiến tranh nên các lớp học của trường phải sơ tán vào các làng Cao Phong, Kim Bảng, Phúc Như. Những gia đình nhà cửa rộng rãi sẵn sàng cho trường mượn làm lớp học như: gia đình ông Khiêm, ông Lý Chứ, ông Lý Hanh ở làng Cao Phong…Khóa học đầu tiên của trường gồm có 3 lớp, 134 học sinh (1 lớp 5, 1 lớp 6 và 1 lớp 7) do thầy Hoàng Muôn quê huyện Triệu Sơn làm Hiệu trưởng, thầy Sang, cô Liên dạy sinh vật, thầy Ngưỡng dạy văn, thầy Ngọc dạy toán… Những tiết học thiếu kính hiển vi, thiếu phòng thí nghiệm nhưng bài giảng của các thầy, cô vẫn còn đọng mãi trong lòng bao thế hệ học trò. Những ngày ấy học sinh vừa đi học vừa tham gia sản xuất, vừa cùng với nhân dân phục vụ chiến đấu, đặc biệt có một số em học sinh nam lớp 7 lớn người, giữa năm học phải “vay tuổi” để lên đường nhập ngũ, trong số đó có người đã ngã xuống nơi chiến trường.

Khóa đầu tiên tốt nghiệp cấp II (1965-1966), Nam Giang có 22 học sinh thi đậu vào trường cấp III Thọ Xuân, họ đã trở thành những sĩ quan quân đội, kỹ sư, thầy giáo và đã có người lại là giáo viên của trường như thầy Thưởng, cô Hương.

Từ năm 1966 - 1968, trường có 6 lớp với trên 200 học sinh gồm 10 giáo viên, mỗi lớp học là một nhà dân, thầy trò phải đào hào đắp lũy che chắn xung quanh lán học để phòng tránh bom đạn địch. Mặc dù các lớp học phân tán nhưng nhà trường vẫn luôn thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, hằng năm số học sinh thi đỗ tốt nghiệp trung bình đạt 80-90%.

Trong những năm học đầu tiên, cả huyện có 2 học sinh đạt giải Nhất, Nhì môn văn cấp tỉnh, thì Nam Giang có em học sinh Đỗ Thị Hương, đạt giải Nhất. Đây là niềm tự hào không riêng gì của học sinh mà còn là niềm tự hào chung của thầy và trò trò trường cấp II Nam Giang. Và cũng từ thành tích học tập của em Hương, nhà trường đã phát động phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong nhà trường để thầy và trò phấn đấu dạy và học tốt hơn, đạt nhiều thành tích hơn trong những năm học tiếp theo.

Từ năm học 1970 - 1975, thầy Nguyễn Đức Năm, quê thị trấn Thọ Xuân làm Hiệu trưởng nhà trường, mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn, trang thiết bị, đồ dùng dạy học không bảo quản được do phải sơ tán nhiều nơi, hư hỏng nhiều, đời sống của giáo viên và học sinh vô cùng thiếu thốn, nhưng được nhân dân che chở đùm bọc, cấp ủy, chính quyền tạo mọi điều kiện, đội ngũ cán bộ, giáo viên vẫn say sưa nhiệt tình với việc dạy học. Nhà trường vẫn duy trì được phong trào dạy tốt, năm học 1970 - 1971, 1971- 1972 trường đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện.

Trường cấp I Nam Giang: Khi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra, thầy Phạm Lê Dực quê Nam Giang về làm Hiệu trưởng cấp I (1965 - 1969) thay cho thầy Lê Đình Thuật và từ năm 1969 - 1975, thầy Lê Viết Đào quê xã Thọ Lộc làm Hiệu trưởng. Thời kỳ này, mặc dù chiến tranh xảy ra ác liệt, các lớp học phải sơ tán vào học trong nhà dân, phải đào hầm hào trú ẩn, đắp lũy xung quanh lán học và ngụy trang cẩn thận, học sinh đi học phải đội mũ rơm, có thời kỳ phải đi học cả ban ngày và ban đêm… nhưng các em vẫn đi học chuyên cần, số học sinh đến lớp vẫn không thay đổi (12 lớp với khoảng 580 - 600 học sinh), số giáo viên dân lập đã chuyến toàn bộ sang quốc lập. Học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập, có nhiều em đã vượt khó vươn lên trong học tập và đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh như em Đỗ Thị Hai đạt giải Nhất tỉnh môn văn, Lê Thị Hà đạt giải Nhì tỉnh môn văn. Đó là thành tích rất đáng tự hào cho nhà trường nói riêng và quê hương Nam Giang nói chung.

Phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” được phát động thường xuyên trong các trường học, khối học. Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp hằng năm đều đạt từ 80 - 90%. Nhiều năm liền cả hai trường cấp I và cấp II của xã đều đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện, nhiều tổ chuyên môn đạt tổ lao động xã hội chủ nghĩa.

Phong trào bổ túc văn hóa cũng được đẩy mạnh theo phương châm “Vừa học, vừa làm”. Toàn xã mỗi năm mở được hai lớp bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, mỗi lớp có từ 30 - 40 người, phần lớn là thanh niên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở.

Đối với ngành học vỡ lòng: Trong gian chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Đảng bộ và chính quyền xã luôn chú trọng xây dựng các lớp học cho các cháu ở đội sản xuất đảm bảo phòng tránh an toàn. Các hợp tác xã đầu tư cơ sở vật chất dạy học và công điểm thích đáng cho giáo viên đứng lớp. Có hợp tác xã còn dành ra một lượng lương thực, thực phẩm nhất định để chăm sóc sức khỏe cho các cháu.

Trạm y tế xã thời kỳ này cũng được tăng cường chất lượng đội ngũ thầy thuốc, số giường bệnh cũng được tăng lên. Năm 1967, địch ném bom bắn phá cầu Phúc Như, do vậy trạm phải sơ tán vào làng Phúc Như ở nhà ông Vẻ. Trạm trưởng lúc này là ông Lê Đình Nguyện (y tá) người làng Đình (Phong Lạc); bà Lê Thị Hiên là nữ hộ sinh và bán thuốc. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là đỡ đẻ và truyên tuyền phòng bệnh. Việc sử dụng thuốc cổ truyền dân gian để chữa bệnh do hai cụ Phạm Duy Bật và cụ Phạm Câu Đà là người chuyên bắt mạch, chữa bệnh cho nhân dân trong và ngoài xã.

Ngoài cán bộ y tế trực tiếp phục vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế, mỗi đội sản xuất có một cán bộ vệ sinh phòng dịch. Trong chiến tranh, trạm đã tập trung vào việc chuẩn bị các túi thuốc phòng không nhân dân cấp phát cho từng cơ sở sản xuất, chiến đấu, đồng thời chuẩn bị nhiều phương tiện cấp cứu như: băng, gạc, cáng, võng… tập trung tại các địa điểm cần thiết.

Năm 1969, Trạm y tế lại chuyển về nhà ông Phú Tuần để hoạt động. Cán bộ trạm gồm ông Lê Quý Đôn (Y sĩ đa khoa) làm Trưởng trạm; cán bộ trạm có thêm bà Phạm Thị Tuất người làng Kim Bảng bán thuốc. Đến năm 1971, trạm được chuyển về Ải Ông Thường, thuộc khu vực thôn Cao Phong. Lúc này Trạm y tế được chính quyền xã đầu tư xây dựng một ngôi nhà ngói 5 phòng gồm: phòng sản, phòng dược, phòng bệnh nhân, phòng trực và phòng họp. Phòng sản phụ chỉ có một bàn gỗ để đỡ đẻ và hai chiếc giường cho bệnh nhân nằm điều trị. Cán bộ trạm lúc này có thêm bà Lê Thị Hồng dược tá bán thuốc. Công tác chăm sóc sức khỏe cho toàn dân đã có đội ngũ y tá thôn đến các đội sản xuất để phục vụ nhân dân và tuyên truyền phòng bệnh. Tại trạm và cơ sở chỉ có 3 đảng viên gồm ông Lê Quý Đôn, ông Lê Trọng Lự và bà Lê Thị Hiên phải sinh hoạt ghép với chi bộ hợp tác xã do ông Phạm Lê Tùng làm Bí thư Chi bộ.

Công tác vệ sinh phòng bệnh đảm bảo sức khỏe cho nhân dân thường xuyên được quan tâm như việc tiêm chúng phòng ngừa các bệnh dịch, bệnh xã hội; phát động nhân dân làm chuồng trại chăn nuôi gia súc gia cầm đảm bảo giữ vệ sinh chung; động viên và hướng dẫn mọi gia đình làm nhà tiêu hai ngăn, đường làng ngõ xóm thường xuyên quyét dọn sạch sẽ.

Hoạt động thông tin tuyên truyền phát triển mạnh mẽ, nhất là việc phát thanh tin tức qua hệ thống loa tăng âm truyền thanh của các hợp tác xã mở rộng ở hầu hết các gia đình. Các khẩu hiệu động viên chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được dựng lên ở nhiều nơi trong xã, trên các bức tường nhà của các gia đình ven đường. Đội văn nghệ thông tin của xã được thành lập, với những thanh niên có năng khiếu, giàu nhiệt tình. Đội luôn có những tiết mục mới phục vụ nhân dân trong lao động sản xuất hoặc trên các công trường làm thủy lợi, đắp đê phòng chống lụt bão... mang lại niềm lạc quan, phấn khởi, tin tưởng trong mọi tầng lớp nhân dân trong xã.

Chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ diễn ra ngày càng ác liệt, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh phải di chuyển xuống sinh hoạt dưới hầm và địa đạo.

Trung ương thấy trước cuộc leo thang chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên đã chủ trương giảm lực lượng dân cư trong khu vực chiến sự, lực lượng ở lại sản xuất và bám trụ sản xuất, chiến đấu phục vụ chiến đấu là người lớn, còn trẻ nhỏ và người già yếu phải có kế hoạch di chuyển ra các tỉnh phía Bắc, những nơi an toàn đề phòng chiến tranh kéo dài, tạo điều kiện cho các cháu học tập, đồng thời duy trì nguồn lực cho cuộc kháng chiến… Vì vậy, Trung ương cho khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình thực hiện “Kế hoạch K8”.

Cùng với các xã trong huyện Thọ Xuân, nhân dân Nam Giang đón nhận hơn 700 lượt cháu thiếu niên K8 về nuôi dưỡng, chăm sóc như con em ruột thịt của mình. Có gia đình mặc dù còn có những khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn nhận nuôi 2 cháu. Bên cạnh việc chăm sóc và nuôi dưỡng, nhân dân Nam Giang còn đóng góp thêm vật liệu tranh tre dựng lán làm phòng học cho các cháu. Các thầy cô giáo cấp I, cấp II trong xã còn kết hợp các thầy, cô từ Quảng Bình được điều động ra tích cực dạy dỗ các cháu, tạo mọi điều kiện cho các cháu yên tâm học tập.

Trước những thắng lợi to lớn của quân và dân ta ở hai miền Nam - Bắc trong năm 1968, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản, buộc chính quyền Mỹ phải ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và chấp nhận ngồi đàm phán với Chính phủ ta tại hội nghị Pari. Nhưng với bản chất của một tên đế quốc hiếu chiến bậc nhất thế giới, Mỹ không từ bỏ âm mưu xâm lược, tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”, một thủ đoạn “thay đổi màu da trên xác chết”. Âm mưu đó càng bộc lộ thế yếu, thế thất bại hoàn toàn không thể tránh khỏi của chúng.

Tranh thủ thời gian địch ngừng ném bom bắn phá miền Bắc, Đảng bộ xã Nam Giang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất và làm thủy lợi; củng cố cải tiến quản lý các hợp tác xã, đưa cách mạng khoa học kỹ thuật vào thâm canh. Cuối năm 1969, các HTX hình thành trại chăn nuôi tập thể, tổng số đàn lợn lên gần 1.500 con; quy hoạch thả nuôi cá ở ao hồ để tăng nguồn thực phẩm, cải thiện đời sống cho nhân dân; các tổ ngành nghề được hình thành như: tổ đóng gạch ngói, tổ nung vôi xây dựng các cơ sở hợp tác xã như: nhà kho, sân phơi, nhà làm phân bón ruộng ở các đội sản xuất và bán cho xã viên xây dựng nhà ở…

Năm 1970, thời tiết không thuận lợi, đầu năm rét đậm, rét hại, tiếp đến là sâu bệnh tàn phá hoa màu. Để đảm bảo sản lượng lương thực, Đảng bộ chỉ đạo hợp tác xã tích cực thâm canh cây lúa, đầu tư phân bón mở rộng diện tích trồng ngô và khoai lang đông, do vậy sản lượng lương thực năm 1970 vẫn bảo đảm chỉ tiêu, kế hoạch đề ra, đời sống nhân dân được cải thiện, nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đóng góp cho Nhà nước đầy đủ.

Thời kỳ này, hợp tác xã đã thực hiện triệt để chế độ 3 khoán, các hộ xã viên đã bỏ tiền mua trâu, bò, mua dụng cụ sản xuất như: xe bò kéo bánh sắt, cày bừa, cào cuốc, không còn cảnh đội sản xuất điều phối sức kéo, dụng cụ cày bừa …đảm bảo gieo cấy cho kịp thời vụ như trước, do vậy năng suất lao động và sản phẩm làm ra ngày một tăng cao.

Năm 1971, huyện Thọ Xuân vinh dự được Trung ương chọn làm điểm xây dựng cấp huyện tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương và của tỉnh, huyện tiến hành điều tra và quy hoạch tổng thể. Toàn huyện được chia làm 3 vùng kinh tế. Vùng 1: gồm 17 xã hữu ngạn sông Chu là vùng trọng điểm lúa, chăn nuôi lợn và cá. Vùng 2: gồm 9 xã vùng tả ngạn sông Chu, chủ yếu phát triển lúa, màu và chăn nuôi. Vùng 3: các xã vùng đồi chủ yếu phát triển chăn nuôi gia súc và trồng cây công nghiệp.

Nam Giang là một trong 17 xã vùng 1, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển trồng trọt và chăn nuôi, đưa năng suất lúa cả năm 1971 của xã lên hơn 6 tấn/ha; tổng đàn lợn lên 2.000 con, bình quân đạt 2,2 con/ha gieo trồng. Phong trào nuôi lợn lai kinh tế phát triển nhanh. Hợp tác xã đã quy hoạch giống, thức ăn, xây dựng chuồng trại. Đàn trâu, bò cũng phát triển, đảm bảo sức cày kéo kịp thời vụ gieo trồng.

Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ bị thua đau ở miền Nam đã trở lại ném bom bắn phá miền Bắc. Sau hơn 3 năm tạm yên tiếng bom đạn, nhân dân miền Bắc lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 với quy mô, tính chất còn ác liệt hơn cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.

Ngay từ những ngày cuối tháng 12 năm 1971, đế quốc Mỹ đã cho 13 máy bay đánh phá khu vực Hàm Rồng, bệnh viện đa khoa tỉnh, khu vực giữa hai xã Quảng Tân và Quảng Trạch (huyện Quảng Xương), giết hại 40 người, làm bị thương 60 người dân vô tội, phá hủy nhiều nhà cửa, hoa màu…đến đầu năm 1972, các hoạt động của địch đối với Thanh Hóa ngày một tăng.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hoạt động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ… Khẩn trương làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu và đưa các lực lượng vào tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất…”.

Thực hiện chỉ thị cấp trên, với kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Đảng bộ, chính quyền xã Nam Giang chuyển mọi hoạt động để phù hợp với tình hình chiến tranh, đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, củng cố hầm hào trú ẩn ở mỗi gia đình và nơi đông người qua lại. Lực lượng dân quân được củng cố đặc biệt là trung đội dân quân trực chiến sẵn sàng chiến đấu, được thoát ly sản xuất, tích cực luyện tập kỹ thuật bắn máy bay bay thấp; các trung đội dân quân khác ở các làng và Đại đội dân quân của hợp tác xã làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, làm nòng cốt trong sản xuất và các phong trào ở địa phương.

Vào lúc 3 giờ 30 phút sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, lần đầu tiên đế quốc Mỹ dùng siêu pháo đài bay B52 với sự yểm trợ của máy bay phản lực tập trung đánh phá Hàm Rồng, Sân bay Sao Vàng và làng Diên Hào, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, làm một số đoạn đường băng sân bay bị hỏng, làm chết 12 người, phá hủy 13 ngôi nhà và nhiều gia súc, gia cầm của nhân dân.

Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ kéo dài từ ngày 13/4/1972 đến ngày 15 tháng 1 năm 1973. Về thời gian thì ngắn hơn lần thứ nhất nhưng tính chất và mức độ đánh phá ác liệt hơn. Chúng đã sử dụng nhiều loại máy bay và bom đạn mới phát minh, đó là các loại máy bay B52, F111, tên lửa Tà Lốt, bom xuyên, bom la de, bom vô tuyến truyền hình, bom hóa học, bom TN cải tiến lần thứ 4...

Về thủ đoạn đánh phá cũng luôn thay đổi, hết sức xảo quyệt và tàn bạo. Các mục tiêu đánh phá được mở rộng ra các công trình dân sinh, kinh tế và khu dân cư… Xã Nam Giang là một địa phương có nhiều trọng điểm quan trọng: có cầu Phúc Như, hệ thống cống đầu mối (cống Phúc Như, cống Ba Gia, Phong Lạc) điều tiết nước cho các huyện Đông Nam tỉnh Thanh Hóa, Triệu Sơn, Đông Sơn, Nông Cống, Quảng Xương… kho dự trữ lương thực Quốc gia, trục đường giao thông 47 đi qua, gần đập thủy điện Bàn Thạch nên thường xuyên bị máy bay giặc Mỹ ném bom bắn phá. Dã man nhất là đêm 7 tháng 12 năm 1972, vào lúc nhân dân đang say xưa giấc ngũ sau một ngày lao động mệt nhọc thì có nhiều chiếc máy bay giặc Mỹ đến ném bom bắn phá xuống khu vực kho lương thực và 3 thôn Phúc Thượng, Phú Gia, Cao Phong làm chết 21 người và hơn 100 người bị thương và sức ép; 70 con trâu, bò, 250 con lợn và nhiều gia súc gia cầm bị chết; hàng chục ngôi nhà bị cháy, có gia đình bị chết không còn ai, có gia đình bị chết 3 người; phá hủy 3 cây cầu, 20 ha ruộng vườn bị tàn phá phải san lấp nhiều năm mới canh tác được. Tội ác tày trời của đế quốc Mỹ vẫn không làm nao núng tinh thần và quyết tâm đánh Mỹ của nhân dân Thọ Xuân nói chung, nhân dân xã Nam Giang nói riêng. Biến đau thương thành hành động cách mạng, người dân Nam Giang vẫn kiên cường bám trụ sản xuất, vẫn đảm bảo lương thực, thực phẩm nuôi sống mình và giao nộp nghĩa vụ cho Nhà nước đầy đủ.

Đầu năm 1973, bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta.

Ngay sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Đảng bộ xã đã họp và quyết định một số nhiệm vụ trước mắt:

- Chỉ đạo các trường học từ nơi sơ tán về nơi cũ tiếp tục hoạt động; rút lực lượng dân quân trực chiến về làm nòng cốt trong các công việc đợt xuất của địa phương.

- Đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lúa và hoa màu; phát triển đàn lợn tập thể, đàn lợn, trâu, bò của xã viên để tăng nguồn phân bón, nguồn thực phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.

- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có người đi chiến đấu ở chiến trường B, C, K.

- Hoàn thành nhiệm vụ động viên tuyển quân, chi viện chiến trường; phấn đấu vượt chỉ tiêu kế hoạch giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước.

Tháng 6 năm 1973, huyện mở hội trại Lam Sơn, phát động chiến dịch “Sông Chu nổi sóng”, tiến quân vào chiến dịch hoàn chỉnh thủy nông, thi đua với huyện Triệu Sơn. Đây là chiến dịch lớn, huy động lực lượng dân quân tự vệ và thanh niên toàn huyện, tổ chức thành 3 sư đoàn và 5 trung đoàn, thực hiện “Quân sự hóa” với tinh thần “Quế Sơn kiên cường, xây dựng quê hương giải phóng, Thọ Xuân quật khởi tiến quân vào mặt trận thủy nông”, lấy lực lượng dân quân tự vệ làm nòng cốt xung kích, chỉ trong vòng nửa tháng đã đào đắp được gần một mét khối đất với hơn một triệu ngày công. Trong đó, lực lượng dân quân và thanh niên Nam Giang đã đóng góp hàng ngàn ngày công, góp phần cùng cả huyện hoàn thành cơ bản hệ thống thủy nông trong huyện và trên địa bàn xã.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Thời kỳ này các hợp tác xã ở Nam Giang đã tiến lên một bước trong công tác quản lý và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; kinh tế công khai đến từng đội sản xuất, ý thức làm chủ tập thể của xã viên được nâng cao, mọi người tích cực lao động sản xuất, xây dựng hợp tác xã với tinh thần: “Hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, tiến tới hợp nhất thành hợp tác xã nông nghiệp toàn xã.

Để tạo điều kiện cho việc tháp nhất thành hợp tác xã nông nghiệp toàn xã, Nam Giang đã tổ chức cho nhân dân học tập Chỉ thị 209 của Ban Bí thư Trung ương, điều lệ hợp tác xã bậc cao, vận động thu hồi nợ, tài sản và ruộng đất công bị lấn chiếm. Thực hiện 5 mũi tiến công do Huyện ủy phát động:

- Tiến công vào mặt trận thủy lợi, hoàn chỉnh thủy nông.

- Tiến công vào vụ đông, làm bèo hoa dâu phân bón.

- Tiến công vào nhiệm vụ tuyển quân chi viện tiền tuyến.

- Tiến công vào trận địa khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới.

- Tiến công vào quản lý xã hội, quản lý thị trường.

Hợp tác xã tín dụng đã tận thu nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân dùng vào những mục đích có hiệu quả. Hợp tác xã mua bán với chức năng mua và bán các mặt hàng nông sản, thực phẩm của nông dân, tích cực cung ứng các mặt hàng cần thiết đối với nông dân, do đó đã góp phần ổn định giá cả, chống tư thương nâng, ép giá.

Về công tác xây dựng Đảng: Bước vào cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Ban chấp hành Đảng bộ xã luôn coi trọng việc quán triệt đường lối chủ trương của Đảng thông qua các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, kịp thời vận dụng vào địa phương một cách sát hợp, nghiêm túc và kịp thời.

Từ khi thành lập Đảng bộ 1963 - 1975, lần lượt các đồng chí Lê Trọng Thung (Phú Gia) Bí thư Đảng ủy từ 1963 - 1965; đồng chí Lê Đình Duyên (Kim Bảng) Bí thư Đảng ủy từ năm 1966 - 1971;; đồng chí Lê Viết Chén (Phong Lạc 2) Bí thư Đảng ủy từ năm 1972 - 1977.

Để Đảng bộ vững mạnh, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới, công tác bồi dưỡng rèn luyện đảng viên được Đảng bộ quan tâm thường xuyên. Trong đó nổi lên là việc xây dựng tiêu chuẩn “Đảng bộ cơ sở 4 tốt”, “chi bộ 4 tốt”. Qua các phong trào cách mạng của xã, Đảng bộ tăng cường việc tổng kết đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, đồng thời luôn lấy việc tự phê bình và phê bình trong đảng làm yếu tố nâng cao năng lực, sức chiến đấu của từng đảng viên, từng chi bộ.

Các lớp học của Đảng về bồi dưỡng lý luận chính trị sơ cấp do Huyện ủy tổ chức đều được Đảng bộ quan tâm, lần lượt cử đảng viên tham gia học tập nhằm nâng cao năng lực chính trị lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động công tác ở địa phương. Nhờ đó nhiều phong trào cách mạng do Đảng bộ tổ chức kịp thời triển khai sâu rộng và có hiệu qủa cao trong mọi tầng lớp nhân dân. Công tác phát triển đảng viên mới cũng được Đảng bộ quan tâm, đặc biệt là lớp đảng viên Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã kết nạp được hàng chục đảng viên, chủ yếu là lực lượng nữ thanh niên.

Trong khó khăn gian khổ, tuyệt đại cán bộ, đảng viên đã thể hiện tinh thần cách mạng tiến công, xung phong gương mẫu trong nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu ở địa phương cũng như chi viện chiến trường, thực hiện đúng khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Bên cạnh việc bồi dưỡng phát triển đảng, những đảng viên có biểu hiện tiêu cực cũng được giáo dục và xử lý kịp thời.

Quá trình phấn đấu, rèn luyện trên 90% đảng viên Đảng bộ được xếp loại “4 tốt”, 80% chi bộ trong Đảng bộ đạt “Chi bộ 4 tốt”. Đảng bộ Nam Giang hằng năm được Huyện ủy Thọ Xuân công nhận là đơn vị đạt “Đảng bộ 4 tốt”.

Hoạt động của chính quyền xã: Thời kỳ này bộ máy chính quyền xã, hợp tác xã, đội sản xuất không ngừng được củng cố. Qua các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã, nhiều cán bộ tận tụy với dân, với đảng, nhiều quần chúng ưu tú đã được bầu vào các cương vị chủ chốt của chính quyền.

Chính quyền đã phát huy vai trò làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, nên đã có sức thu hút phong trào yêu nước trong mọi cá nhân, gia đình, tổ chức xã hội; mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều được nhân dân chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm túc.

Ngành nội chính của xã thời kỳ này do đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính, kiêm Trưởng Công an xã phụ trách. Mạng lưới công an được xây dựng ở cơ sở đi sâu nắm bắt tình hình, giám sát các đối tượng tình nghi, đề phòng biệt kích, gián điệp và tiến hành các biện pháp truyên truyền giáo dục bảo mật phòng gian trong nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn xã.

Thời gian từ 1965 - 1975, lần lượt các các ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã là: ông Ngô Hữu Ngư (Phúc Thượng), quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1964 - 1965; ông Đào Văn Long (Phúc Như) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ 1965 - 1967; ông Lê Văn Thau (Phúc Thượng) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1968 - 1970; ông Lê Đình Quản (Phong Lạc 2) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1971 - 1973; ông Trần Khắc Huân (Cao Phong) quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1973 - 1975.

Các ông, bà làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã gồm có: ông Lê Công Mơn (Phong Lạc 1) làm Phó Chủ tịch từ năm 1960 - 1967; bà Lê Thị Hoạch (Kim Bảng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1967 - 1969; ông Ngô Xuân Tài (Phúc Thượng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1969 - 1971; bà Lê Thị Tình (Phú Gia) làm Phó Chủ tịch từ năm 1971 - 1974; ông Ngô Xuân Tài (Phúc Thượng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1974 - 1976.

Về hoạt động các đoàn thể quần chúng: Trong những năm chiến tranh ác liệt, các đoàn thể quần chúng đã nhanh chóng phát huy vai trò chính trị của tổ chức mình, nhất là việc động viên các phong trào thi đua ái quốc diễn ra rầm rộ ở địa phương.

Đoàn thanh niên lao động xã: đã tích cực phát động có hiệu quả phong trào “Ba sẵn sàng”(1) trong thanh niên. Với phong trào trên, bên cạnh lực lượng lớn nam thanh niên gia nhập quân đội vào chiến đấu ở các chiến trường, còn có nhiều nữ thanh niên xung phong lên đường làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, tiếp lương, tải đạn, bảo đảm giao thông vận tải trên các cung đường Trường Sơn, chiến trường nam khu 4 và chiến trường Lào. Số còn lại ở hậu phương hầu hết là nữ thanh niên, ngày đêm thi đua với những người ra trận sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi.

Qua thử thách của nhiều phong trào đoàn từ cơ sở, nhiều thanh niên ưu tú được kết nạp vào đảng, càng phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của chi bộ, Đảng bộ xã.

Từ năm 1965 - 1975, tổ chức đoàn đã động viên gần 700 thanh niên lên đường nhập ngũ (trong đó có 45 nữ), 102 người tham gia lực lượng thanh niên xung phong.

Hội Phụ nữ xã: đã nêu cao phong trào “Ba đảm đang”([17]) trong mọi hoạt động để để chồng con yên tâm đi chiến đấu, gánh nặng gia đình, xã hội đặt ra cho phụ nữ nhiều lo toan. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã và sự tổ chức chỉ đạo của đoàn thể, chị em phụ nữ trong xã đã vươn lên đảm đang mọi nhiệm vụ hậu phương, xứng đáng với niềm tin của người thân ngoài tiền tuyến.

Phong trào thi đua cấy dày, cấy thẳng hàng, đúng thời vụ, chăm sóc cây trồng, chăn nuôi gia súc được chị em tham gia thường xuyên, tích cực. Đáng trân trọng và khâm phục hơn nữa là những chị em là vợ liệt sĩ, nhiều người đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ của xã hội, đoàn thể giao phó.

Cùng với sự lớn mạnh của phong trào, số hội viên tham gia ngày một đông, năm 1965, toàn xã mới có hơn 700 hội viên, đến 1975 có gần 1.000 hội viên. Thời kỳ đầu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1967) Chủ tịch hội là bà Phạm Thị Tình, ủy viên Ban chấp hành hội là bà Ẩn, bà Hoàn, bà Lân, bà Hiên, bà Ngọc, bà Sáu, bà Dần, bà Dong. Phát huy truyền thống Hội mẹ chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp, Hội Phụ nữ xã và các chi hội phụ nữ ở các thôn đã đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, các gia đình có quân nhân tại ngũ, phối hợp cùng các hội làm tốt các chính sách hậu phương quân đội. Trong quá trình phấn đấu, Hội Phụ nữ xã, chi Hội Phụ nữ các thôn được Hội Phụ nữ tỉnh, huyện tặng nhiều bằng khen, giấy khen.

Hội Phụ lão xã cũng nêu cao phong trào “Phụ lão mẫu mực” động viên con, cháu tòng quân, chăm sóc gia đình và hăng hái thực hiện hoàn thành nhiều công việc của hợp tác xã như trồng và chăm sóc cây phủ xanh và ngụy trang đường làng, làm vườn ươm giống cây, bảo quản kho tàng, sân phơi hợp tác xã, trồng cây dược liệu cung cấp cho trạm y tế chế biến thành các vị thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc xã: luôn phát huy tinh thần đoàn kết, động viên chính trị trong mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực các phong trào cách mạng như: phong trào sản xuất, phong trào chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, phong trào giao thông, thủy lợi…Nhiều người trong Mặt trận Tổ quốc xã đã được bầu vào Hội đồng nhân dân xã và đội trưởng các đội sản xuất.

Từ năm 1965 - 1975, lần lượt các ông được bầu giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã: Lê Văn Sĩ, Lê Sĩ Quớ, Phạm Hữu Bưu.

Công tác chi viện cho tiền tuyến:

Chiến tranh bùng nổ, cả nước lên đường đánh giặc chống ngoại xâm, thì đây cũng là thời kỳ trong x㠓nhà nhà ra quân” đánh giặc. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, công tác chi viện cho tiền tuyến thời kỳ này luôn được Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể quần chúng quan tâm.

Về động viên tuyển quân chi viện chiến trường: Đảng bộ luôn xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của Đảng bộ. Từ đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xã đội và các đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, đăng ký quản lý lực lượng, tổ chức khám tuyển và giao quân chu đáo với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nhiệm vụ động viên tuyển quân không phải chỉ của xã đội, mà là của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể quần chúng và nhân dân trong xã. Ngày tiễn đưa con em lên đường nhập ngũ luôn là ngày hội của quần chúng.

Với khí thế “Ba sẵn sàng”, công tác động viên tuyển quân hằng năm đã đi vào nền nếp, không chỉ chuẩn bị lực lượng cho những đợt tuyển hằng năm mà còn chủ động có lực lượng dự bị sẵn sàng lên đường khi có lệnh đột xuất. Không chỉ có những thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự thời chiến mà còn có những người đã phục viên, xuất ngũ tình nguyện tái ngũ để được tham gia chiến đấu với quân xâm lược giặc Mỹ.

Từ năm 1965-1975, Nam Giang có gần 700 người nhập ngũ (trong đó có 45 nữ). Có 23 gia đình có 4 - 5 con; 85 gia đình có 2- 3 con, có gia đình có con độc nhất cũng xung phong lên đường ra trận tuyến. Năm nào Nam Giang cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch giao quân huyện giao. Cùng với những chàng trai ra trận, Nam Giang còn có 102 thanh niên xung phong và hàng trăm lượt người tham gia dân công hỏa tuyến đi phục vụ chiến chiến đấu, bảo đảm giao thông, vận tải hàng chi viện ở các chiến trường Trị Thiên, đường Trường Sơn và nước bạn Lào.

Trong chiến đấu gian khổ, con em Nam Giang đã nêu cao truyền thống cách mạng của quê hương, nêu cao tinh thần hy sinh dũng cảm, nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường, nhiều người để lại phần xương máu nơi trận mạc, nhiều người đạt danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ”; đặc biệt có người được Chủ tịch nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, đó là: Anh hùng Hoàng Ngọc Chương (1).

Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nam Giang có 118 liệt sĩ, 241 thương bệnh binh và người nhiễm chất độc hóa học, 7 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Toàn xã có 87 người được hưởng chế độ theo Quyết định 290 và 147, có 80 người được hưởng chế độ theo Quyết định 142; có 301 người hưởng chế độ theo Quyết định 162; có 671 được hưởng chế độ theo Quyết định 49 của Chính phủ…

Công tác chi viện: Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân, Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo, chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp phấn đấu hoàn thành và vượt chỉ tiêu, kế hoạch giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Từ năm 1965 - 1975, Nam Giang đã đóng cho Nhà nước và chi viện cho tiền tuyến 7.560 tấn thóc; 310.000 kg thịt lợn hơi; 107.000 kg gia cầm; 355.000 kg rau quả các loại… và nhiều tấn lương thực, thực phẩm, rau quả các loại ủng hộ các đơn vị bộ đội đóng quân trên địa bàn xã.

Vừa kháng chiến vừa ổn định đời sống nhân dân, trong 10 năm chiến tranh, việc cải thiện một phần ăn, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh của quần chúng đã mang lại những kết quả rõ rệt. Với mức ăn của hợp tác xã tuy chưa phải là đầy đủ (có lúc mất mùa do thiên tai, nhiều gia đình phải ăn cháo, ăn khoai) nhưng tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhân dân Nam Giang quyết vượt lên mọi khó khăn trong đời sống sinh hoạt, gom góp từng bát gạo gửi ra tiền tuyến để bộ đội ăn no, đánh thắng quân thù.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mười năm (1965 - 1975), Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo quân dân trong xã vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, cũng là mười năm Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể quần chúng cùng toàn thể các tầng lớp nhân dân Nam Giang được bồi dưỡng ý chí cách mạng kiên cường, vượt lên muôn vàn khó khăn gian khổ, phấn đấu hết sức mình để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời chi viện sức người, sức của góp phần cùng quân và dân cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước.

 Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Nam Giang đã được Nhà nước tặng thưởng:

- 1 Huân chương Kháng chiến hạng Ba;

- 1 Huân chương Lao động Hạng Ba về phát triển kinh tế và phong trào HTX nông nghiệp;

- 1 Huân chương Chiến công hạng Ba về thành tích bắn rơi 1 máy bay giặc Mỹ;

- 15 dân quân trong xã đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua và được tặng Bằng khen;

- 938 người được tặng thưởng huân, huy chương các loại (trong đó có 1.899 huân, huy chương các loại (có 16 huân, huy chương Việt - Lào), 11 Huân chương Quân công hạng Ba, 19 Huy chương Quân kỳ Quyết thắng, 49 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 65 Huân chương Kháng chiến hạng Hai và hàng trăm huân, huy chương khác).

- Đảng bộ xã Nam Giang nhiều năm liền đạt Đảng bộ trong sạch vững mạnh;

- Lực lượng dân quân nhiều năm liên tục đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến và quyết thắng.

Ghi nhận những thành tích của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân đã đạt được như trên, ngày 18 tháng 4 năm 2005, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Nam Giang được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Thành tích cao đẹp của con em Nam Giang đã góp phần vào bản anh hùng ca chiến thắng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc; để lại truyền thống quý báu cho Đảng bộ và nhân dân trong xã, cho thế hệ con cháu mai sau.

 

 


 

 

Chương V

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG

VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1995)

 

I. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ NAM GIANG KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 - 1985)

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 24 tháng 9 năm 1975, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (khóa III) ra Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội... Miền Bắc tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.

Hòa trong không khí phấn khởi tự hào của cả dân tộc, ngay trong ngày 30/4/1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa đã kịp thời ra Nghị quyết chỉ đạo Đảng bộ nhân dân toàn tỉnh tổ chức hoạt động chào mừng chiến thắng của dân tộc và phát động đợt thi đua lấy tên là: “Chiến dịch mừng giải phóng Sài Gòn” từ ngày 01/5 đến ngày 19/5/1975, lập thành tích xuất sắc, lập công dâng Bác. Nội dung của đợt thi đua tập trung vào các nhiệm vụ: đẩy mạnh công tác thủy lợi, thu chiêm làm mùa hoàn thành kế hoạch tháng và quý, tạo nên khí thế mới trong sản xuất và công tác.

Cũng trong tháng 5 năm 1975, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII được tiến hành từ ngày 19 đến ngày 28, đề ra 3 công tác lớn của các năm 1975 - 1977 như sau:

- Tập trung chỉ đạo cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý kinh tế từ cơ sở đến các ngành kinh tế.

- Phát huy quyền làm chủ tập thể, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Tổ chức các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh.

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, cải tiến chỉ đạo của của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV, Huyện ủy Thọ Xuân ra Nghị quyết số 13 phát động phong trào thi đua thực hiện thắng lợi chiến dịch 55 ngày đêm “Tiến quân vào thời kỳ mới” của Đảng bộ tỉnh và hoàn thành kế hoạch năm 1975. Nội dung cơ bản của đợt thi đua do Huyện ủy phát động là:

- Nhanh chóng thu hoạch vụ mùa, ổn định đời sống nhân dân sau lũ lụt. Đẩy mạnh sản xuất vụ đông, khai hoang phục hóa hoàn chỉnh thủy nông.

- Phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1975, làm tốt công tác trị an, đăng ký quân dự bị.

Thực hiện chiến dịch 55 ngày “tiến quân vào thời kỳ mới”, Thọ Xuân giành được thành quả rất quan trọng. Thu hoạch vụ mùa nhanh gấp 3 lần năm trước, ăn chia phân phối tốt ổn định đời sống xã viên, giải quyết cho 26 xã ở trong diện mất mùa được vay lương thực. Gieo trồng hết diện tích vụ đông trong điều kiện khó khăn về thời tiết, giống…

Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết của Huyện ủy, hòa trong không khí thi đua sôi nổi của cả nước, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang bước vào thời kỳ mới với quyết tâm giành thắng lợi vượt bậc trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Thực hiện chiến dịch 55 ngày “tiến quân vào thời kỳ mới”, Nam Giang phát động phong trào thủy lợi nội đồng, tu bổ lại bờ vùng, bờ thửa, thu hoạch vụ chiêm Xuân, nhanh chóng triển khai sản xuất vụ mùa, tạo nên không khí mới đầy khí thế sôi nổi ở địa phương. Kết thúc chiến dịch, Nam Giang hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu giao nộp lương thực, thực phẩm, nông sản năm 1975, hoàn chỉnh cơ bản thủy lợi thủy nông nội đồng. Công tác tuyển quân năm 1975 địa phương đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu. Cùng với việc hoàn chỉnh thủy nông ở địa phương. Đội thủy lợi chuyên 202 của hợp tác xã Nam Giang có mặt tham gia các công trình thủy lợi lớn của tỉnh như: sông Lý, sông Hoàng, đắp đê sông Chu, đê sông Cầu Chày.

Ngày 25 tháng 4 năm 1976, cùng nhân dân cả nước, nhân dân Nam Giang phấn khởi tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung của cả nước. Đây thực sự là ngày hội lớn của toàn dân. Trong không khí ngày hội lớn của dân tộc, cử tri trong xã đã nô nức tham gia bỏ phiếu bầu cử lựa chọn những người xứng đáng vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Cuộc bầu cử đã tiến hành đúng luật và đã thành công rực rỡ. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, quy định Quốc huy và Quốc ca là bài Tiến quân ca, quy định Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam và chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng từ đây, Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân.

Sau thành công của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI, tháng 6 năm 1976, Đảng bộ huyện Thọ Xuân tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XV. Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Phải tích cực tiến hành cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý ở tất cả các hợp tác xã, các ngành. Nhanh chóng làm biến đổi nền kinh tế nông nghiệp trong huyện, tạo thế đi lên đồng đều trong phong trào thâm canh”.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ Nam Giang tiến hành rà soát tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý, xây dựng kế hoạch sản xuất, kế hoạch lao động, kế hoạch tài vụ, kế hoạch chăn nuôi, thực hiện hoạch toán kinh tế trong hợp tác xã.

Nhiệm vụ vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có tính chiến lược là đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề cấp bách về lương thực, thực phẩm. Trong những năm chiến tranh, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng sản lượng cây lương thực chính là lúa mới đạt trên 4 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người 15 kg/người/năm. Để tăng sản lượng, Đảng bộ xác định bên cạnh tăng năng suất, phải mở rộng diện tích vì còn quỹ đất có thể khai hoang, phục hóa chuyển từ cấy 1 vụ sang 2 vụ. Do đó đã tích cực chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức phát động thi đua làm giao thông - thủy lợi trong các hợp tác xã để củng cố hệ thống thủy lợi, đặc biệt là các công trình mương máng, cống dẫn tưới tiêu nước. Ngay từ vụ đông xuân 1975 - 1976, tổ chức ra quân rầm rộ, cán bộ, xã viên được huy động trong các đợt chiến dịch, đội chuyên thủy lợi 202 của các hợp tác xã được tăng cường lao động, là lực lượng làm thủy lợi thường xuyên, nòng cốt trong các chiến dịch cải tạo mương máng…

Thực hiện Nghị quyết 61/CP của Hội đồng Chính phủ và chủ trương của các cấp về tổ chức lại sản xuất theo hướng tiến lên sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, huyện Thọ Xuân tiến hành tổ chức lại các Hợp tác xã. Theo sự chỉ đạo của huyện, cuối năm 1975 đầu năm 1976, Đảng bộ đã tổ chức vận động thành lập hợp tác xã toàn xã, chỉ định ông Lê Đình Phiệt làm Chủ nhiệm, sau đó là các ông Ngô Xuân Tài, Đoàn Mạnh Sơn làm Chủ nhiệm. Sau khi được thành lập, Ban quản trị Hợp tác xã tiến hành cân đối đất đai, lao động, địa bàn dân cư, chia toàn xã thành các đội sản xuất nông nghiệp và các tổ, đội ngành nghề trực thuộc Ban Chủ nhiệm, xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức sản xuất.

Về cơ cấu ngành nghề, có các đội chuyên sản xuất lúa giống, đội chuyên cày, đội xe bò, đội chăn nuôi và một đội bảo vệ hoa màu. Thực hiện chế độ chính sách, ưu tiên các gia đình chính sách, người già, người tàn tật… được bù theo định xuất, còn người dân hưởng thụ theo công điểm. Bên cạnh đó, hợp tác xã cũng đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, đưa vào các loại giống lúa mới, bò lai và các công cụ sản xuất được cải tiến.

Về văn hóa xã hội, các trường học cấp I, cấp II cũng được xây dựng sửa chữa đảm bảo cho các cháu học tập không bị ảnh hưởng khi mưa nắng. Chất lượng dạy và học thật sự được quan tâm. Số học sinh đến trường ngày càng nhiều, địa phương cùng với ngành giáo dục đã tiến hành xóa mù chữ trong thời gian ngắn nhất, giúp đỡ học sinh nghèo học giỏi. Hợp tác xã cũng đã thành lập được nhà giữ trẻ cho các đội sản xuất. Người giữ trẻ được hưởng công điểm hợp tác xã, mọi chi phí do hợp tác xã đảm nhiệm. Khi các gia đình có việc hiếu, việc hỷ, hợp tác xã cũng đứng ra đảm nhiệm. Đám cưới được tổ chức tập trung theo nếp sống mới. Đám tang cũng tổ chức trang nghiêm gọn nhẹ, bãi bỏ dần các hủ tục lạc hậu. Trạm y tế của xã tiếp tục thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, phòng trừ các loại dịch bệnh.

Cơ sở vật chất của hợp tác xã từng bước được tăng cường như hội trường, nhà kho. Bên cạnh đó, hệ thống kênh mương tưới tiêu được củng cố đã mang lại chủ động cho nhân dân. Một số diện tích lúa 1 vụ nay chuyển sang 2 vụ đạt hiệu quả. Hợp tác xã đã đạt năng suất 5 tấn/ha trở lên. Nhiệm vụ lương thực và thực phẩm hằng năm đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Từ các năm 1976 - 1977, hệ thống đường giao thông trong xã được tu bổ, xây dựng cơ bản, đáp ứng lưu thông thuận lợi cho người dân. Ngoài ra, mỗi năm xã Nam Giang còn huy động 3 đến 4 lượt lao động với lực lượng từ 200 - 300 người tham gia các công trường đắp đê sông Lý, sông Hoàng.

Bên cạnh Hợp tác xã nông nghiệp, Nam Giang còn có Hợp tác xã tín dụng và Hợp tác xã mua bán, tổ sửa chữa cơ khí, cửa hàng ăn uống. Như vậy, thời gian này Nam Giang tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã, nhiều tổ hợp kinh tế với chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Song, cùng chung một mục đích phát triển kinh tế, phục vụ đời sống nhân dân trong xã và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Các loại hình hợp tác xã ấy đều có sở hữu chung là sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa.

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân xã Nam Giang đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề thủ công. Chiến tranh biên giới Tây Nam (1977) và chiến tranh biên giới phía Bắc (tháng 2 năm 1979) đã làm ảnh hưởng một phần công tác tổ chức lại sản xuất ở địa phương. Hàng trăm thanh niên Nam Giang tiếp tục lên đường làm nghĩa vụ quân sự giúp nước bạn Campuchia và Lào. Nhiều người đã hy sinh hay để lại một phần xương máu trên các chiến trường Lào, Campuchia, biên giới phía Bắc...

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm, đã kết hợp chặt chẽ công tác chính trị tư tưởng và công tác tổ chức xây dựng Đảng bộ phát triển về cả số lượng, chất lượng. Đảng bộ đã tổ chức quán triệt Nghị quyết 23, 24 của Trung ương Đảng, cử cán bộ, đảng viên đi học lớp bồi dưỡng lý luận tại trường Đảng của huyện. Thông qua các phong trào cách mạng tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách kết nạp vào Đảng nhiều quần chúng ưu tú để bổ sung lực lượng đảng viên cho Đảng bộ. Thường xuyên củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ; hoạt động chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong xây dựng các phong trào thi đua yêu nước… Nhờ đó, các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả, năng lực tổ chức vận động quần chúng không ngừng được nâng cao; hoạt động của các cấp ủy Đảng đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình tạo ra sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động, tạo ra năng lực trí tuệ tổ chức lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

Cùng với ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ lần thứ IX, X, huyện Đảng bộ lần thứ XIX, XX, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nam Giang đã đi vào con đường sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, có tổ chức, có kế hoạch khai thác phát huy thế mạnh sẵn có của địa phương, vươn lên thoát khỏi tình trạng yếu kém trở thành đơn vị khá, có sự tiến bộ rõ nét về nhiều mặt. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, cơ sở vật chất của hợp tác xã cũng khá hơn trước nhiều. Ngoài việc phân phối, cho xã viên, đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước, còn tích lũy xây dựng một số công trình phục vụ sản xuất: Chuồng trại chăn nuôi, lò ủ giống, sân phơi, nhà kho, nhà làm việc của hợp tác xã,...

Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985) là “Phát triển một bước sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân”, nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, khắc phục đáng kể tình trạng không bình thường về phân phối lưu thông, làm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc trong những năm sau.

Tình hình trong nước và tỉnh ta có nhiều biến động phức tạp. Mâu thuẫn giữa cung và cầu nảy sinh, thiếu thốn về vật tư, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, các nhu yếu phẩm khác. Bất ổn về tài chính, giá cả đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của cán bộ và nhân dân, nhất là khu vực nông thôn.

Trước tình hình đó, năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100 chủ trương khoán thẳng ruộng đất cho người lao động. Hợp tác xã đảm nhiệm phần đầu tư chi phí và thu sản phẩm theo định mức của từng hạng đất. Nam Giang đã có bước đi đúng, phù hợp với Chỉ thị 100 ở một số khâu, vì thế quyết tâm chuyển đổi nhanh chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ, đưa nhân dân từng bước xóa đói giảm nghèo, tiến tới tăng nhanh hộ giàu. Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung cơ bản với nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm các công trình trọng điểm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, mà khâu cơ bản là giống, cây, con. Ổn định hệ thống giống thuần chủng, tích cực du nhập giống mới có chất lượng cao.

Nhằm tạo đà để bứt phá đi lên, Ban chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã ra Nghị quyết đổi mới tư duy kinh tế đối với mô hình HTX nông nghiệp đã củ kỷ, lạc hậu bằng mô hình Công - Nông - Thương tín. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban quản trị HTX nông nghiệp được kiện toàn, mô hình Công - Nông - Thương tín đã bước đầu triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả.

Về Công nghiệp: một số mô hình sản xuất công nghiệp như: mở lò nấu thủy tinh, tái chế các phế liệu thủy tinh có trong dân; nung vôi phục vụ sản xuất; liên doanh, liên kết với các cơ sở công nghiệp trong và ngoài tỉnh để hổ trợ phát triển công nghiệp tại địa phương...

Về Nông nghiệp: khởi động lại chương trình cơ giới hóa trong nông nghiệp để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Trại chăn nuôi của HTX được củng cố và phát triển theo xu hướng tập trung hiện đại.

Về Thương nghiệp và tín dụng: thành lập đội thương nghiệp do đồng chí phó chủ nhiệm phụ trách ngành nghề chủ trì, liên doanh, liên kết với các huyện miền núi khai thác lâm sản, hàng hóa để giao thương với các tỉnh ngoài. Liên doanh, liên kết với Công ty than Hòn Gai để cung cấp than cho ngành nghề nung vôi, nung gạch tự túc vật liệu xây dựng để kiến thiết và cung ứng cho xã viên... Có thể nói đây là một điển hình mới của Thọ Xuân thời bấy giờ.

Vượt qua khó khăn, thử thách của những năm đầu sau chiến tranh (1975 - 1985), Đảng bộ xã Nam Giang đã có nhiều cố gắng vươn lên và đã đạt được những thành tích quan trọng trên từng lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt, bước đầu thực hiện chính sách mới trong nông nghiệp khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ xã viên để tập thể, hộ gia đình tổ chức sản xuất làm thay đổi căn bản hình thức sản xuất thời chiến đã không còn phù hợp, năng suất, sản lượng tăng lên. Bên cạnh thành quả đạt được còn nhiều hạn chế, yếu kém như: hạ tầng kinh tế - xã hội chưa được cải thiện đáng kể; việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu nên năng suất lúa màu chỉ đạt 120 - 130kg/sào, bình quân thu nhập đầu người chỉ đạt 8 - 13kg/người/tháng; những khó khăn trong đời sống xã hội và đời sống nhân dân do hậu quả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, sự bao vây cấm vận và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch… đã tác động không tốt đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã… Phát huy những thành quả đạt được, khắc phục, sửa chữa những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang mạnh dạn, sáng tạo vận dụng thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc của Đảng, tiếp tục xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.

II. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN NAM GIANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1986 - 1995)

Thành công của đổi mới tổ chức quản lý trong nông nghiệp tạo cơ sở để Đảng ta quyết tâm đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Tháng 12 năm 1986, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI được tiến hành tại Hà Nội khẳng định: toàn quân, toàn dân tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện điều đó cần phải tiến hành đổi mới nhiều mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là ổn định mọi mặt kinh tế - xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong chặng đường tiếp theo. Về kinh tế, tập trung xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu từng bước đẩy lùi khó khăn về tạo nguồn tích lũy tái sản xuất mở rộng.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, trong thời điểm này, tình hình an ninh chính trị ở Nam Giang diễn biến phức tạp.

Từ những năm 1980 - 1986, một số quần chúng ở Nam Giang liên tục gửi đơn khiếu kiện, tố cáo số cán bộ trong Ban Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp tham ô tài sản tập thể, vi phạm quyền dân chủ, ức hiếp quần chúng. Ủy ban kiểm tra đã tiến hành kiểm tra và tham mưu cho Ban Thường vụ Huyện ủy giải quyết, kết luận về sai phạm của một số cán bộ hợp tác xã; Nhưng do giải quyết của cấp trên chưa đúng đắn kịp thời, một số cán bộ vi phạm không bị kỷ luật mà còn được giữ chức vụ cao hơn, dẫn đến gây bức xúc trong dư luận và quần chúng nhân dân.

Năm 1987, lợi dụng chính sách dân chủ công khai của Đảng, một số đối tượng quá khích tập hợp một số người tự xưng là “Hội chống tiêu cực” kéo lên Ủy ban nhân dân tỉnh đòi giải quyết. Tiếp sau những phần tử quá khích tiếp tục vận động lôi kéo quần chúng đấu tranh làm cho tình hình nội bộ Nam Giang ngày thêm trầm trọng. Từ Nam Giang, điểm nóng đã lan tỏa đến một số địa phương khác trong huyện như: Phú Yên, Xuân Vinh…

Để giải quyết điểm nóng ở Nam Giang, cấp ủy, chính quyền huyện đã cử đoàn cán bộ về Nam Giang nắm tình hình, tuyên truyền giáo dục nhân dân, đồng thời tiến hành củng cố hệ thống chính trị xã và các thôn, xóm. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị thực hiện Nghị quyết 24 của Tỉnh ủy về chỉnh đốn Đảng, Thông tri số 27 của Huyện ủy về xử lý kỷ luật một số cán bộ chủ chốt của xã tham ô tư lợi về kinh tế, về đất đai. Những người vi phạm đã được xử lý kỷ luật, thu hồi lại tài sản cho tập thể.

Sau khi tình hình được giải quyết, Đảng bộ xã Nam Giang đã triển khai thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Hợp tác xã đo đạc lại ruộng đất, khoanh vùng sản xuất xác định cây, con đề ra các mục tiêu kinh tế, giao lại cho các đội sản xuất thực hiện.

Hợp tác xã đã tổ chức bình từng hạng đất, lấy hộ làm đơn vị nhận khoán, khoán cho người lao động theo mức khoán. Người nhận khoán và gia đình chỉ phải nộp thuế cho Nhà nước và lệ phí nước cho xí nghiệp thủy nông. Quỹ đầu sào nộp cho hợp tác xã và nộp phí cho bảo vệ thủy nông, còn năng suất bao nhiêu thì hộ sản xuất được hưởng. Vì vậy, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên. Lương thực, thực phẩm đủ ăn cho các gia đình và bước đầu có tích lũy. Các loại thuế, phí, lệ phí đều hoàn thành cho Nhà nước và thủy nông. Đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt, tiềm năng lao động được khai thác hiệu quả, sức lao động được phát huy do khoán 100 ra đời đã cởi trói và mang lại lợi ích cho người nông dân. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện khoán 100 đã bộc lộ những hạn chế khó khăn cần khắc phục:

Một là: Người lao động chưa thực sự làm chủ nguồn tư liệu sản xuất như: đất đai, dụng cụ sản xuất, nguồn phân bón, cây con giống, nước tưới...

Hai là: Mức khoán cao, người lao động không còn phấn khởi tích cực thi đua sản xuất như trước, cộng với thiên tai bão lụt khiến năng suất, sản lượng giảm sút, dẫn đến vốn của tập thể bị chiếm dụng, xã viên khê đọng sản ngày một tăng.

Từ thực tiễn trên, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 chỉ ra kinh tế hợp tác xã có nhiều hình thức từ thấp đến cao; hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp là đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; gia đình xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng khác với hợp tác xã, còn chủ động phát triển sản xuất, kinh doanh dưới nhiều hình thức.

Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ xã Nam Giang đã tổ chức quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ, Ban Chủ nhiệm các hợp tác xã và toàn thể nhân dân học tập, nắm vững 3 yêu cầu và 5 nội dung cơ bản của Nghị quyết 10.

Do thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, nông dân xã Nam Giang tự làm chủ tư liệu sản xuất, chủ động tổ chức sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, khai hoang mở rộng diện tích canh tác, đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất như: trâu, bò, công cụ, máy bơm nước, máy tuốt lúa phương tiện vận tải... Vì thế sản xuất nông nghiệp ở xã Nam Giang có điều kiện phát triển, năng suất lúa bình quân được nâng lên, số hộ đói nghèo giảm đáng kể.

Tháng 6 năm 1991, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII được tiến hành để khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra và xác định phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong những năm 1991 - 1995. Đại hội chỉ rõ: Nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang rình rập ngăn cản sự nghiệp đổi mới trên toàn đất nước ta. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân tộc phải đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần yêu nước, bản lĩnh cách mạng kiên cường, từng bước đẩy lùi các tiêu cực, giữ vững chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa… đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bằng sự cố gắng tự lực tự cường, có sự hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân xã Nam Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, kinh tế Nam Giang vẫn mang nặng tính tự cấp, tự túc, sản xuất nông nghiệp là chính, tính chất manh mún: lúa nước, ngô, khoai, sắn, năng suất, sản lượng còn thấp. Thời kỳ này vẫn còn nhiều số hộ đói nghèo. Nguyên nhân một phần là do những yếu tố chủ quan của con người như: trình độ nhận thức và nhất là cơ chế quản lý đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Tháo gỡ được vấn đề này, Nam Giang cũng như bao địa phương khác sẽ chuyển mình theo sự chuyển đổi của cơ chế quản lý mới, từng bước vươn lên.

Về văn hóa - xã hội: Vốn là một vùng quê có truyền thống hiếu học, nhưng do kinh tế khó khăn thời hậu chiến, cộng với thiên tai bão lũ liên miên, thường xuyên mất mùa, đời sống nhân dân xã Nam Giang cũng như các địa phương khác trong huyện, trong tỉnh vô cùng khó khăn. Trường cấp I, cấp II xuống cấp; đời sống giáo viên khó khăn, học sinh bỏ học nhiều.

Thực hiện Nghị quyết số 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, chú trọng giáo dục toàn diện theo nội dung “Dạy chữ, dạy người và dạy nghề”; giáo dục gắn với lao động sản xuất. Thực hiện Đề án nâng cao chất lượng giáo dục của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm bồi dưỡng chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ thầy, cô giáo; địa phương tu sửa lại trường lớp... Cùng với nền kinh tế phục hồi, phát triển, công tác giáo dục 3 cấp học ở Nam Giang cũng từng bước được đi lên. Số học sinh đậu vào trường cấp III, đậu đại học, cao đẳng ngày một nhiều; giảm đáng kể tình trạng học sinh bỏ học. Bình quân cứ 3 người thì có 1 người đi học.

Công tác Y tế được nâng cao một bước. Việc phòng chống bệnh được tuyên truyền rộng rãi xuống từng người dân, do vậy không có dịch bệnh xảy ra. Tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn 1,1%; hơn 90% số hộ trong xã có giếng nước sạch, nhà vệ sinh hai ngăn, một số gia đình đã làm nhà vệ sinh tự hoại.

Các hoạt động văn hóa thông tin tiếp tục có bước phát triển. Nam Giang là một trong những xã thực hiện tốt quy chế văn hóa mới nông thôn. Xã đã xây dựng được thư viện với hàng trăm đầu sách. Hệ thống loa truyền thanh được cải tạo, đảm bảo phát thanh trực tiếp, tuyên truyền đến nhân dân các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến khoa học kỹ thuật và mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Đầu năm 1993, xã Nam Giang đã có điện phục vụ một số điểm thiết yếu. Điện đã mang lại thuận lợi rất nhiều cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Những ngày lễ tết, các tổ chức đoàn thể như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh kết hợp tổ chức văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao tạo không khí sôi nổi, vui tươi. Kinh tế phát triển, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng cao, các hoạt động văn hóa được quan tâm, các tệ nạn cờ bạc, mê tín dị đoan được xóa bỏ triệt để.

Về quốc phòng - an ninh: Thực hiện chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quân sự huyện về củng cố xây dựng lực lượng, huấn luyện dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới, năm 1987, Nam Giang tiến hành bóc tách, xây dựng lực lượng dân quân, lấy chất lượng là chính. Tổ chức lực lượng dự bị động viên theo sự chỉ đạo của huyện, mỗi xã là một đại đội. Hằng năm, hai lực lượng này được huấn luyện sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch. Năm 1987, Nam Giang thành lập Hội Cựu binh sỹ và đến tháng 12 năm 1989 tổ chức thành lập Hội Cựu chiến binh xã.

Về công tác an ninh, thực hiện Nghị quyết 28 -NQ/TU và Chỉ thị số 34 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng về thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách về an ninh trật tự trong tình hình mới. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ xã, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nam Giang nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm... Lực lượng an ninh nhân dân luôn được củng cố, bồi dưỡng nghiệp vụ... Do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong xã không có người vi phạm pháp luật; tình làng nghĩa xóm gắn bó keo sơn, cùng nhau thực hiện đời sống văn hóa mới, do vậy công tác quốc phòng, an ninh được đảm bảo.

Mười năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế xã hội xã Nam Giang đã có bước phát triển đáng kể. Từ một xã thuần nông, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lúa và cây màu thấp, bình quân lương thực đầu người chỉ từ 90 đến 100 kg (1980 - 1981), đến năm 1995 đã nâng lên trên 250 kg thóc, chưa kể lương thực phụ như khoai, ngô... Xã có tuyến đường tỉnh lộ chạy qua, lại có chợ Neo là một chợ lớn của khu vực, nhiều hộ gia đình đã phát triển ngành nghề buôn bán, các ngành nghề thủ công. Một số mô hình trang trại ra đời trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá. Nhiều gia đình mua máy cày bừa, máy bơm nước, máy tuốt lúa. Đàn gia súc, gia cầm ngày một tăng nhanh đảm bảo được sức kéo và nguồn phân hữu cơ bón ruộng. Hình dáng “phố Neo” ngày càng sầm uất. Dịch vụ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng, dụng cụ sản xuất, cửa hàng tạp hóa, hiệu thuốc, tiệm may phát triển phục vụ nhân dân.

Mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, những thành quả về kinh tế và văn hóa xã hội mà Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang đạt được là nền móng vững chắc, tạo đà để Nam Giang tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới.


 

 

Chương VI

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

(1996 - 2018)

 

I. ĐẢNG BỘ XÃ NAM GIANG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2010)

Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986 - 1996), đất nước ta đã thu được những thành tựu hết sức to lớn. Tháng 6 năm 1996, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VIII, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội chỉ rõ: công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhân dân ta phải tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thức đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao vào đầu thế kỷ sau, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, sự đoàn kết xây dựng của Đảng bộ, sự phấn đấu lao động của nhân dân, Ban Chấp hành đảng bộ xã lần lượt tháo gỡ, khắc phục những khó khăn, tranh thủ những thuận lợi để xác định nhiệm vụ, đề ra chủ trương đúng đắn, giải pháp sát thực để tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh mà nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ đã đề ra.

- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã bình quân hằng năm đạt trên 11%, trong đó năm cao đạt tới 13,8% (2006). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; tăng dần tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại. Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người đạt 5,5 triệu đồng, tăng 72,7% so với năm 2000. Tổng thu nhập GDP năm 2005 đạt 42 tỷ đồng. Đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,1 triệu đồng. Nhiều gia đình mua sắm được nhiều đồ dùng đắt tiền cho sinh hoạt hàng ngày.

Trong nông nghiệp, được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, xã Nam Giang đã tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cây trồng, nhất là khâu giống và cơ cấu cây trồng nghiêm ngặt để bảo đảm sản xuất 3 vụ trong năm, chú ý vụ chiêm xuân và vụ đông là 2 vụ có nhiều giống lúa lai, ngô lai cho năng suất cao. Những năm 1998 - 1999, xã đã tiến hành dồn điền đổi thửa lần 1, từ 10.500 thửa xuống còn 6.759 thửa, giảm 3.705 thửa; diện tích bình quân tăng từ 328 m2 lên 500 m2.

Thực hiện Nghị quyết 04-NQ/HU của Huyện ủy Thọ Xuân về đổi điền dồn thửa cho hộ nông dân lần thứ 2, năm 2007, Ban Chấp hành Đảng bộ đã xây dựng Nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đổi điền dồn thửa cho hộ nông dân. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu: Tạo điều kiện để mở rộng sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa và phát triển kinh tế trang trại, gắn với xây dựng cánh đồng 50 triệu, hộ nông dân có thu nhập 50 triệu đồng/năm trở lên; Xóa bỏ tình trạng ruộng đất manh mún, giảm tối đa số thửa của mỗi hộ. Mỗi hộ chỉ còn 1 đến 2 thửa, ở 1 hoặc 2 xứ đồng với diện tích bình quân mỗi thửa từ 1.500m2 trở lên...

Việc đổi điền dồn thửa kết hợp với bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý, thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương nội đồng, nâng cao chất lượng phục vụ của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, đồng thời ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào sử dụng đại trà đạt từ 60 - 70% diện tích canh tác, hệ số sử dụng đất các năm đạt 2,5 lần. Chính vì vậy, năng suất không ngừng tăng lên. Đến năm 2001, tổng sản lượng lương thực đạt 3.900 tấn; năm 2004 tăng lên 4.450 tấn, giá trị thu nhập đạt 36 - 37 triệu đồng/ha, giá trị thu nhập từ trồng trọt đạt 10,35 tỷ đồng. Đến năm 2010, năng suất bình quân đạt 13,6 tấn/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt ổn định từ 4.200 - 4.300 tấn. Bình quân lương thực đạt 585kg/người. Giá trị thu nhập đạt 60 triệu đồng/ha. Thu nhập từ ngành trồng trọt năm 2010 đạt 18,6 tỷ đồng.

Chăn nuôi được xác định là ngành chính có giá trị thu nhập cao trong sản xuất nông nghiệp. Cấp ủy, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn thực hiện, kết hợp với các chế độ khuyến khích của nhà nước, vừa đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, hình thành các gia trại, trang trại vừa và nhỏ. Đàn bò tăng bình quân hằng năm trên 10% với xu hướng chăn nuôi trâu, bò hàng hóa; nhiều hộ nuôi từ 2 - 3 con, chu kỳ quay vòng từ 4 - 6 tháng. Năm 2001, đàn trâu bò có 584 con, đến năm 2005 là 900 con; đàn lợn tăng từ 800 con năm 2001 lên 1.400 con năm 2005. Tổng thu từ ngành chăn nuôi năm 2004 đạt 10,65 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 50,7% trong nông nghiệp.

Tính đến đầu năm 2010, trên địa bàn xã đã có 13 trang trại, gia trại. Tổng thu từ sản xuất, kinh doanh của các trang trại, gia trại đạt 3,86 tỷ đồng (chiếm 26%). Bình quân mỗi trang trại đạt 220 triệu đồng/năm. Nhiều hộ chăn nuôi đã áp dụng chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp. Số hộ chăn nuôi lợn kết hợp với xây hầm BIOGA đã tăng lên 142 hộ. Đặc biệt, trong các năm 2007 và 2008, số hộ chăn nuôi quy mô lớn gia tăng, tổng số từ 5.080 con lợn tăng lên 6.630 con trong năm 2008. Tổng sản lượng xuất chuồng trong các năm 2006 - 2009 ước đạt 1.562 tấn thịt lợn hơi. Năm 2008, sau dịch bệnh tai xanh diễn ra, số đầu con và trọng lượng xuất chuồng giảm.

Năm 2008, đàn trâu, bò đạt khoảng 1.100 - 1.150 con. Tuy nhiên, do giá cả trâu, bò giảm sút và người dân đầu tư máy cày thay thế cho trâu bò nên số lượng đàn trâu, bò giảm mạnh. Năm 2009 - 2010 chỉ còn 638 con bằng 53% kế hoạch.

Chăn nuôi gia cầm và các vật nuôi khác cũng tăng đáng kể. Nhiều hộ nuôi vịt đẻ và ấp trứng vịt lộn, con giống bán ra thị trường. Ngoài ra còn nuôi gà thả vườn, nuôi chó thịt, thỏ, nhím... Sản lượng bình quân đàn gia cầm đạt trên 50 tấn/năm. Tổng thu nhập từ ngành chăn nuôi năm 2010 đạt trên 15 tỷ đồng, chiếm 50% giá trị thu nhập trong nông nghiệp.

Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản đã được đẩy mạnh. Một số hộ nông dân xây đắp, củng cố hệ thống ao hồ bằng gạch, đá, chuyển từ nuôi cá thịt sang nuôi cá giống đem lại hiệu quả kinh tế cao. Một số hộ đã chuyển sang nuôi ba ba, ếch, cá trê phi, cá rô đồng, lươn trạch đồng có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và xây dựng cơ bản trong nông thôn đã phát triển đồng đều ở các khu vực. Đặc biệt là phố Neo, trục đường 506, các trục đường liên thôn, các hộ đã đầu tư phát trển ngành nghề như: Chế biến sản phẩm sau thu hoạch, ghò hàn, mộc, lắp ghép gia công đồ gỗ cao cấp, trang trí nội thất… Năm 2006 là 513 hộ, đến năm 2010 tăng lên 631 hộ. Trên địa bàn xã có 5 công ty và 1 doanh nghiệp tư nhân, thu hút hàng trăm lao động, các sản phẩm chủ yếu là hàng cao cấp như tôn lạnh, gạch nung và gạch không nung chịu nén cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng tại địa phương và vùng lân cận. Thu nhập từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - ngành nghề và xây dựng cơ bản đạt 14,2 tỷ đồng năm 2006, tăng lên 21,68 tỷ đồng năm 2009 (tăng 152%), trong đó xây dựng cơ bản đạt trên 10 tỷ đồng.

 Các loại hình dịch vụ thương mại tiếp tục phát triển đa dạng về chủng loại và quy mô, hình thức. Một số mô hình dịch vụ mới như Hợp tác xã kinh doanh vận tải, cửa hàng vàng bạc đá quý, đại lý xe máy, dịch vụ Internet; dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp như: cày bừa, gặt đập lúa liên hoàn… phát triển ngày càng mở rộng về quy mô năng lực dịch vụ. Ngoài ra còn có gần 1.000 lao động đi làm ở ngoài tỉnh và 20 người đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài; một bộ phận mua bán lợn con, lợn thịt, làm hàng xay hàng sáo, làm nghề hàng mã… Những loại hình dịch vụ trên đã thúc đẩy kinh tế phát triển tại địa phương, là nhân tố xây dựng xã Nam Giang trở thành tụ điểm kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ thương mại đa dạng của khu vực đông nam huyện Thọ Xuân. Số hộ tham gia dịch vụ thương mại từ 160 hộ năm 2006 tăng lên 272 hộ năm 2010. Thu nhập từ 12,6 tỷ đồng năm 2006 tăng lên 15,9 tỷ đồng năm 2010, tăng 126%.

Công tác đầu tư xây dựng tại địa phương tiếp tục phát triển tốt. Nguồn vốn đầu tư tăng mạnh là do tranh thủ được các nguồn vốn cấp trên và do tích luỹ được trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Từ năm 2006, Đảng bộ và nhân dân đã tập trung hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn bằng bê tông và tập trung đổ bê tông nội đồng một số tuyến đường chính với số lượng 25 km. Xây dựng 5 phòng học trường Mầm non; 5 phòng học trường Trung học Cơ sở; 12 phòng học nhà 2 tầng trường Tiểu học với tổng giá trị 5,7 tỷ đồng; xây dựng nhà văn hóa Phong Lạc, Phố Neo, Phúc Hạ. Ngoài ra, các công trình khu vực kinh tế tư nhân và nhân dân cũng đã được đầu tư xây dựng với hàng chục ngôi nhà kiên cố từ 1 đến 3 tầng. Tổng nguồn vốn đầu tư trong những năm 2000 - 2005 là gần 5 tỷ đồng, tăng 4 lần so với giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, trong các năm từ 2006 - 2010, số vốn đầu tư tại địa phương (cả khu vực công và tư nhân) lên tới hàng chục tỷ đồng. Tính đến năm 2010, toàn xã có 722 hộ có xe máy, 1.626 hộ có ti vi, 18 hộ có xe ô tô vận tải và xe chở khách, 970 hộ có máy điện thoại cố định...

Hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, bám sát vào yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Tham mưu kịp thời cho Đảng ủy, chính quyền về chuyển dịch cơ cấu, bố trí mùa vụ, giống cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; hướng dẫn cho hộ nông dân chăm bón và phòng trừ sâu bệnh kịp thời; cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, đáp ứng được nhu cầu, bảo đảm chất lượng cho nông dân, góp phần đưa năng suất cây trồng, sản lượng lương thực ngày càng cao hơn. Hoạt động dịch vụ điện luôn đảm bảo cho phục vụ xuất và sinh hoạt đúng quy định của ngành. Doanh thu trong 5 năm 2006 - 2010 của Hợp tác xã dịch vụ là trên 6,5 tỷ đồng, trong đó nguồn thu từ dịch vụ điện sáng là hơn 4, tỷ đồng.

Cùng với sự hình thành và phát triển của các thành phần kinh tế nói chung trong huyện, các thành phần kinh tế của địa phương cũng đang trong quá trình hình thành và phát triển dưới những mức độ khác nhau. Đặc biệt là phát triển kinh tế tư nhân, nhiều hộ từ sản suất nông nghiệp là chủ yếu đã chuyển sang buôn bán phát triển tiểu thu công nghiệp và dịch vụ thương mại, hình thành các tổ hợp sản xuất, đại lý các mặt hàng lớn, xây dựng nhà xưởng chế biến, sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng, góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của địa phương phát triển theo hướng công nghiệp.

- Về Văn hóa - Xã hội.

Công tác giáo dục luôn được Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh quan tâm, thường xuyên chăm lo, vì vậy đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ nguồn ngân sách nhà nước và sự ủng hộ đóng góp của nhân dân đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang, mua sắm đồ dùng, thiết bị đảm bảo cho việc dạy và học. Nhà trường tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học; duy trì nề nếp quy chế chuyên môn trong trường học gắn liền với việc đẩy mạnh cuộc vận động, các phong trào do ngành giáo dục phát động, thực hiện xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Các trường vừa quan tâm đến chất lượng đại trà vừa quan tâm đến chất lượng mũi nhọn. Tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên, cơ sở vật chất được củng cố và xây dựng mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác khuyến học, khuyến tài đã có sự chuyển biến tích cực, tất cả các thôn đều có chi hội và xây dựng được quỹ khuyến học, hằng năm đều có tổng kết và trao phần thưởng cho học sinh đạt thành tích trong học tập. Số học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày một tăng. Trong các năm 2000 - 2005, có 75 em thì từ năm 2006 - 2009 đã có 152 em đậu vào các trường đại học, cao đẳng. Trung tâm học tập cộng đồng được duy trì và hoạt động ngày càng hiệu quả, đã chủ động phối hợp với các ngành đoàn thể và Hợp tác xã tổ chức các lớp học, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân. Chỉ tính trong 5 năm 2006 - 2010 đã tổ chức 125 lớp học với 20 nghìn lượt người tham gia học tập.

Công tác thông tin, tuyên truyền được chú trọng. Xã đã đầu tư nâng cấp hệ thống đài truyền thanh với tổng trị giá trên 50 triệu đồng. Tập trung tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương trên hệ thống loa truyền thanh, qua đội ngũ báo cáo viên, các hội nghị của địa phương, các đoàn thể và các chi bộ.

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được cấp ủy, chính quyền tiếp tục quan tâm chỉ đạo, được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Năm 2005, Nam Giang có 5/9 làng khai trương xây dựng làng văn hóa; có 2 làng đạt làng văn hóa cấp tỉnh (Phúc Như, Kim Bảng) và 2 làng đạt làng văn hóa cấp huyện (Phú Gia, Cao Phong); 80% gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Đến năm 2010, có 9/9 làng xây dựng làng văn hóa, 2 cơ quan văn hóa, trong đó đã có 2 làng đạt danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh, 3 làng, 1 khu phố, 1 cơ quan đạt danh hiệu cấp huyện. Phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” cũng phát triển khá tốt. Tỷ lệ gia đình đạt gia đình văn hóa từ 80% năm 2006 lên 85,2% năm 2009.

Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì tốt, tập trung vào các ngày lễ lớn của dân tộc, các sự kiện chính trị quan trọng của địa phương như: đón nhận danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khai trương xây dựng các làng, cơ quan văn hóa, ngày đại đoàn kết toàn dân tộc hằng năm (18/11). Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao đã có sức lan tỏa, thu hút tập hợp nhiều tổ chức cá nhân tham gia, đặc biệt đã có những gia đình đã có cả vợ chồng con cái tham gia tập luyện và biểu diễn. Tính đến năm 2010, xã đã thành lập được 05 Câu lạc bộ thể dục thể thao, 01 Câu lạc bộ thơ ca. Thường xuyên tổ chức các buổi liên hoan văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao các làng văn hóa nhân các ngày tết, ngày lễ của đất nước, của địa phương.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm đẩy mạnh. Chất lượng khám và điều trị bệnh của trạm y tế tiếp tục được nâng lên, từng bước nâng cao chất lượng chuẩn Quốc gia về y tế. Đội ngũ y, bác sỹ, y tế thôn được bố trí đầy đủ vừa đảm bảo trình độ chuyên môn vừa bảo đảm về tinh thần trách nhiệm phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Hằng năm tổ chức khám và điều trị cho hàng ngàn lượt người. Năm 2001, khám, điều trị cho cho 3.102 lượt người; năm 2004, xã được công nhận là xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, đã tổ chức khám, điều trị cho 4.032 lượt người. Năm 2009, thực hiện khám và điều trị ban đầu cho đối tượng Bảo hiểm y tế, đã tổ chức khám cho 358 lượt, đạt 113% kế hoạch và cấp thuốc Bảo hiểm y tế cho 1.053 lượt. Năm 2010, đã khám và điều trị cho 1.259 lượt, cấp thuốc cho 1.874 lượt.

Công tác Y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được coi trọng. Đến năm 2010, đã có 889 hộ/1.615 hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh, đạt 55%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước sạch đạt 96%. Tổ chức thu gom rác thải đưa vào nơi quy định ở khu phố Neo. Hướng dẫn, chỉ đạo các hộ gia đình tự thu gom rác thải, đào hố chôn lấp hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.

Công tác dân số, kế hoạch hóa tiếp tục đạt những kết quả tốt. Đội ngũ làm công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình từ xã đến thôn được duy trì thường xuyên. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt từ 0,5 - 0,67%, phong trào xây dựng mô hình gia đình 2 con được nhiều cặp vợ chồng trẻ thực hiện.

Việc thực hiện chính sách xã hội được triển khai đầy đủ, đúng quy định. Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc chi trả các chế độ chính sách cho các đối tượng theo quy định của Nhà nước không để xảy ra mất mát khiếu kiện. Tập trung giải quyết tồn đọng về công tác chính sách đối với người có công như đối tượng người tham gia hoạt động trước năm 1975; hồ sơ người tham gia hoạt động ở biên giới, hải đảo và làm nghĩa vụ quốc tế theo quy định 142 và 180.

Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên thăm hỏi động viên, tặng quà cho các đối tượng chính sách và người có công nhân các ngày lễ, ngày tết. Tiến hành rà soát, bình xét cấp sổ cho hộ nghèo, cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tượng thuộc diện Nhà nước quy định.

- Về Quốc phòng - An ninh:

Công tác quốc phòng được xác định là nhiệm vụ rất quan trọng. Đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động khảo sát phân loại độ tuổi tổ chức biên chế vào lực lượng dân quân, lực lượng dự bị động viên. Tổ chức huấn luyện quân sự hằng năm theo đúng kế hoạch của trên. Tổ chức giáo dục, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác quân sự quốc phòng cho đối tượng 3, 4, 5 theo quy định của bộ chỉ huy quân sự tỉnh được 75 người. Tổ chức tốt đăng ký quản lý thanh niên trong độ tuổi làm nghĩa vụ hằng năm. Từ năm 1996 đến 2010, đã có 137 thanh niên nhập ngũ, đạt 100% kế hoạch, phối hợp giải quyết tốt chế độ hậu phương quân đội.

Công tác an ninh trật tự luôn được quan tâm lãnh đạo. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được duy trì ổn định. Công tác phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội đã được coi trọng. Sự phối hợp giữa lực lượng công an xã với các ban ngành, đoàn thể trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc đã có sự tiến bộ rõ rệt. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia, phát hiện tố giác tội phạm và tệ nạn xã hội đã có chuyển biến tích cực, góp phần triệt phá các tụ điểm cờ bạc, lô đề do quần chúng nhân dân phát hiện tố giác. Trong các năm 2006 - 2009 đã đấu tranh làm rõ 54 vụ. Trong đó, gây rối trật tự công cộng 23 vụ; đánh bài, đánh đề 14 vụ; đánh người gây thương tích 7 vụ; trộm cắp 5 vụ; tai nạn giao thông 4 vụ; vận chuyển ma tuý 1 vụ.

Thực hiện Chỉ thị số 10 và đề án số 375 của Chủ tịch UBND tỉnh về xây dựng khu dân cư an toàn về an ninh trật tự, Nam Giang đã thành lập ban ANTT ở xã do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban. 11 tổ bảo vệ an ninh trật tự ở thôn do đồng chí Công an viên làm tổ trưởng; củng cố 76 tổ An ninh xã hội. Hoạt động của ban chỉ đạo và của các tổ an ninh trật tự, an ninh xã hội có hiệu quả góp phần vào sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội lành mạnh để nhân dân yên tâm sản xuất.

- Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

Công tác tư tưởng chính trị luôn được Đảng ủy xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đảng ủy đã tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên đến cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ và nhân dân, gắn với xây dựng các chương trình hành động sát thực, cụ thể và tổ chức thực hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt, có tính thuyết phục cao, nên tạo được sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã. Vì vậy, quần chúng nhân dân tích cực tham gia thực hiện các chương trình như đổi điền dồn thửa, giao thông thủy lợi nội đồng, bê tông hóa đường giao thông nông thôn; tham gia đóng góp tự nguyện để xây dựng các công trình phúc lợi ở địa phương và các hoạt động xã hội khác đạt được kết quả khá tốt.

Do làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng hầu hết cán bộ, đảng viên luôn giữ vững lập trường, quan điểm kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa và nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng ta. Phát huy và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trên tất cả đời sống xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh cương lĩnh điều lệ Đảng, chấp hành tốt pháp luật Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn nhạy bén, tiếp cận và đổi mới, khắc phục tư tưởng trì trệ, bảo thủ; thống nhất đoàn kết cao trong nội bộ Ban Chấp hành, trong Đảng bộ và toàn thể nhân dân. Tích cực học tập nâng cao nhận thức, gương mẫu trong lối sống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Lòng tin của nhân đối với Đảng và cán bộ, đảng viên được tăng cường.

Các hoạt động thông tin tuyên truyền hướng vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm gắn với các phong trào thi đua chào mừng các ngày kỷ niệm lớn thông qua các hội thi, hội diễn, các buổi toạ đàm, mít tinh nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng đồng thời quán triệt đến 100% cán bộ, đảng viên về học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thông qua cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã giúp cho cán bộ Đảng viên trong toàn Đảng bộ và nhân dân thấy được trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể đối với từng lĩnh vực, công việc mình phụ trách. Do vậy, từ năm 2005 - 2010, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, điều hành của chính quyền, sự ủng hộ của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ và nhân dân, kinh tế xã hội Nam Giang liên tục đạt mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm đạt 11,7%. Cơ sở vật chất hạ tầng như: đường, trường, trạm được tăng cường; trường, trạm từng bước được công nhận chuẩn Quốc gia; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên, quốc phòng - an ninh được giữ vững.

Năm 2009, sau hơn 2 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về thực hiện Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ đã có nhiều chuyển biến về tinh thần trách nhiệm trong nhiệm vụ được giao. Có 2 tập thể và 22 cá nhân được khen thưởng trong dịp sơ kết hơn 2 năm về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Công tác tổ chức cán bộ cũng được Đảng ủy thường xuyên quan tâm. Tổ chức xây dựng quy chế, quy hoạch về công tác tổ chức cán bộ, chủ động trong việc lãnh đạo, nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật; thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý; kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, tư cách cử đi đào tạo tại các lớp dài hạn, ngắn hạn tại huyện và tỉnh làm nguồn tham gia vào các chức danh chủ chốt của chính quyền từ thôn đến xã đảm bảo trẻ hóa đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chất lượng cán bộ từng bước được chuẩn hóa và nâng cao. Thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị. Từ năm 2000 đến 2005, đã cử 6 đồng chí đi học chuyên môn, 3 đồng chí học lý luận chính trị; 136 lượt bí thư chi bộ, trưởng thôn được bồi dưỡng nghiệp vụ. Đến năm 2010, trong Ban Chấp hành Đảng bộ, trình độ chuyên môn Cao đẳng 01 đồng chí, Trung cấp 07 đồng chí; trình độ lý luận Trung cấp 7 đồng chí, Sơ cấp 02 đồng chí.

Đảng ủy luôn quan tâm lãnh đạo kiện toàn các chi bộ gắn liền với kiện toàn các thôn theo đúng quy định của điều lệ Đảng và các quy định hiện hành của Nhà nước cũng như điều lệ của các tổ chức đoàn thể. Thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng hoạt động của chi bộ”, Đảng ủy đã tập trung giải quyết dứt điểm các đơn vị yếu, coi trọng việc bồi dưỡng, sắp xếp bố trí hợp lý cán bộ vào vị trí phù hợp với trình độ, năng lực và sở trường công tác. Từ năm 2005 - 2010, có 16 Bí thư chi bộ được bầu mới qua đại hội nhiệm kỳ của các chi bộ và 10 trưởng thôn được bầu mới.

Công tác phát triển đảng viên mới đã có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 2000 - 2010 đã kết nạp được 46 đảng viên mới; làm thủ tục và trao huy hiệu đảng cho các đồng chí đảng viên 30, 40, 50, 60 năm tuổi Đảng kịp thời, đầy đủ.

Công tác kiểm tra giám sát và thi hành kỷ luật đảng được thực hiện nghiêm túc. Cấp ủy đảng đã tăng cường kiểm tra đảng viên và các chi bộ chấp hành đường lối chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nghị quyết, chỉ thị của đảng, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về chế độ nề nếp sinh hoạt đảng. Thông qua kiểm tra giám sát phát hiện các vụ việc vi phạm, chỉ đạo sử lý các trường hợp vi phạm khuyết điểm. Từ năm 2000 đến 2005, đã kiểm tra 52 lượt đối với chi bộ và 20 đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra đã xử lý kỷ luật đối với 05 đảng viên (01 cảnh cáo, 02 khiển trách và 02 xóa tên); chấp nhận 05 trường hợp xin ra khỏi Đảng. Từ năm 2006 - 2010, đã phát hiện và xử lý 8 trường hợp (cảnh cáo 6 và khiển trách 2 đồng chí). Thông qua kiểm tra giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng đã góp phần ngăn ngừa các biểu hiện vi phạm, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và uy tín của Đảng trong xã hội.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã luôn giữ vai trò là trung tâm đoàn kết tổ chức tốt các hoạt động của mình. Vận động các đoàn viên, hội viên, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ chính trị của địa phương, các phong trào, các cuộc vận động như: “Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa; phong trào xây dựng quỹ vì người nghèo, xóa nhà tranh tre dột nát; phong trào nông dân sản xuất giỏi.... Thường xuyên duy trì quy chế phối hợp với đảng, chính quyền để hoạt động có hiệu quả góp phần quan trọng trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền tạo không khí dân chủ trong xã hội, vận động nhân dân thực hiện tốt nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa ở các cụm dân cư, từng gia đình đạt kết quả cao; nhiều năm liền được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện công nhận là đơn vị hoạt động xuất sắc trong huyện.

Đoàn Thanh niên là lực lượng đi đầu trong phong trào xung kích tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi đầu trong hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày kỷ niệm, ngày lễ, ngày Tết, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Thường xuyên xây dựng và củng cố tổ chức đoàn. Tổ chức vận động đoàn viên tham gia ủng hộ phong trào nghĩa tình biên giới hải đảo, nhà ở cho thanh niên xung phong nghèo, ủng hộ tủ sách thanh niên làm theo lời Bác được số tiền là 5,4 triệu đồng. Từ năm 2005 - 2010, đã mở 5 lớp đối tượng đoàn, kết nạp mới 369 đoàn viên. Hằng năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Trung ương đoàn và Tỉnh đoàn tặng Bằng khen.

Hội Phụ nữ đẩy mạnh các hoạt động, các phong trào như phong trào nuôi con khỏe dạy con ngoan, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, đồng thời tập hợp, thu hút hội viên vào tham gia sinh hoạt hội. Chỉ tính từ năm 2005 đến đầu năm 2010, hội đã thu hút được 191 hội viên, nâng tổng số hội viên lên 782 người, đạt 132%. Vận động chị em xây dựng thêm quỹ hội, quỹ hội từ 39,4 triệu đồng đến năm 2010 đã tăng lên 89,5 triệu đồng. Từ năm 2005 - 2010, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tỉnh hội và Trung ương hội tặng Bằng khen.

Hội Nông dân với phong trào vận động hội viên tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình xoá đói, giảm nghèo. Hội đã tập hợp được lực lượng, trí tuệ sáng tạo của mọi người dân trong xã, khai thác tiềm năng đất đai, tích cực chuyển đổi con giống, cây trồng, vật nuôi, giúp nhau về kỹ thuật chăm sóc gieo trồng, đã tạo nên một bước nhảy vọt về năng xuất, sảng lượng cũng như giá trị thu nhập trên 1 ha ngày một cao. Hội đã có nhiều đổi mới, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thiết thực của hội viên như tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng quỹ giúp đỡ nhau trong khó khăn... Nhiều hội viên đã đi đầu trong mô hình phát triển kinh tế trang trại, gia trại, chuyển đổi du nhập giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nghề phụ. Số hội viên tham gia hội ngày một đông. Chỉ tính từ năm 2005 đến năm 2010, hội đã vận động được thêm 190 hội viên. Qua đánh giá hằng năm, Hội Nông dân luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hội Cựu chiến binh đã phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn đi đầu trong các phong trào làm kinh tế, sinh hoạt văn hóa - xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường ở địa phương. Hội cũng đã tích cực vận động số anh em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương tham gia sinh hoạt. Chỉ tính từ năm 2005 đến năm 2010, Hội đã kết nạp được 143 hội viên, nâng tổng số lên 536 hội viên, đạt 98,6%. Hội cũng đã vận động hội viên đóng góp xây dựng quỹ hội được 90,4 triệu đồng.

Sau gần 15 năm tổ chức và thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nghị quyết Đại hội Đảng bộ, với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, phối hợp chặt chẽ đồng bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, sự phấn đấu nỗ lực vượt mọi khó khăn của nhân dân; với tinh thần đoàn kết một lòng, Đảng bộ xã Nam Giang đã giành được những kết quả và thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; Chính trị ổn định và giữ vững, đời sống nhân dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần, bộ mặt địa phương ngày càng đổi mới. Với những kết quả trên là cơ sở để Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện thắng lợi và hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2010 - 2018.

II. ĐẢNG BỘ XÃ NAM GIANG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2018)

Tháng 5 năm 2010, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ xã Nam Giang tiến hành Đại hội lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội đã đánh giá những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong quá trình Đảng bộ lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, các mục tiêu mà nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đề ra.

Nghị quyết của Đại hội đã đặt ra những mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể cho nhiệm kỳ 2010 - 2015, trong đó phương hướng chung là: Tiếp tục phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát huy cao nhất năng lực của các thành phần kinh tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài kết hợp với nguồn lực địa phương để đẩy mạnh tốc độ phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa kết hợp với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố xây dựng hệ thống chính trị thực sự vững mạnh với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Nghị quyết cũng đặt ra một số mục tiêu trọng tâm: Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 13,5% trở lên, trong đó nông nghiệp tăng 6%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 17,0%; dịch vụ thương mại 17,5%. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 40%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 30%; dịch vụ 30%. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 13,5 triệu đồng/năm. Tổng sản lượng lương thực ổn định 4.300 - 4.400 tấn/năm trở lên; tổng đàn trâu, bò 1.200 con; tổng đàn lợn 8.000 con. Tổng thu ngân sách địa bàn hằng năm vượt dự toán huyện giao 5% trở lên. Xây dựng 3 trường đạt chuẩn Quốc gia. Ổn định tỷ lệ phát triển dân số: 0,5% - 0,6%. Giảm hộ nghèo 3%/ năm. Hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự; giữ vững an ninh quốc phòng, ổn định tình hình cơ sở. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; 80% chi bộ đạt TSVM, 80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, hằng năm mỗi chi bộ kết nạp được 01 đảng viên trở lên.

Các đại biểu tham dự Đại hội đã thảo luận và thống nhất đề ra một số chương trình trọng tâm:

- Quy hoạch phát triển vùng lúa năng suất chất lượng và hiệu quả cao, gắn với sự hình thành và phát triển các trang trại, coi đây là một bước đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp.

- Phát huy lợi thế để xây dựng và phát triển cụm nghề, gắn với phát triển dịch vụ, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế ở địa phương.

- Cải cách hành chính toàn diện, gắn với nâng cao năng lực quản lý điều hành của chính quyền, để chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân.

Đại hội cũng đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Lê Văn Thái được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Đoàn Văn Hòa là Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy và đồng chí Nguyễn Thành Tua là Phó Bí thư Đảng ủy, phụ trách chính quyền.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng ủy đã thường xuyên tổ chức công tác giáo dục bồi dưỡng chính trị chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Quyết định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy, nhận thức của cán bộ và nhân dân được nâng lên, các điển hình tiên tiến trong lao động, học tập được nhân rộng, tình đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau được khơi dậy trong cán bộ, các tổ chức, đoàn thể, khu dân cư và trong từng gia đình.

Thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Kế hoạch số 75/KH-UBND, ngày 2/7/2012 của UBND huyện về thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới huyện Thọ Xuân giai đoạn 2012 - 2015, Đảng ủy xã Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nhằm hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra. Qua rà soát đánh giá ban đầu, xã mới đạt 6/19 tiêu chí, thu nhập đầu người năm 2010 mới đạt 9,8 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo chiếm 13,3%; tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 70%; Cơ sở vật chất, giáo dục chưa đạt chuẩn, nhà văn hóa, khu thể thao còn thiếu, công sở làm việc chưa đáp ứng nhu cầu; Hệ thống giao thông nội đồng, giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng phục vụ cho sản xuất và đi lại mới đáp ứng được 50% so với yêu cầu. Bên cạnh đó, nhận thức của không ít nhân dân, thậm chí cả cán bộ, đảng viên về chương trình chưa sâu sắc, còn có thái độ trông chờ vào nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước...

Xác định Chương trình xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ mới và khó đối với cấp cơ sở, tuy nhiên, việc xây dựng thành công nông thôn mới trên địa bàn xã sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã tổ chức quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của huyện đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, huy động hệ thống chính trị vào cuộc. Đảng ủy cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo, chỉ đạo UBND thành lập Ban quản lý; xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện, phân công các đồng chí trong Ban Chấp hành, các ngành, đoàn thể, cán bộ công chức phụ trách và hướng dẫn các thôn tổ chức thực hiện.

Năm 2014, để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng ủy đã xây dựng Nghị quyết chuyên đề số 41-NQ/ĐU, ngày 12 tháng 4 năm 2014; tổ chức cho cán bộ tập huấn nghiệp vụ về kiến thức xây dựng nông thôn mới; lập quy hoạch và kế hoạch tổ chức thực hiện được huyện phê duyệt; tổ chức các hoạt động tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích để các thôn tập trung thi đua xây dựng nông thôn mới, quyết tâm hoàn thành trước năm 2016.

Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, tháng 5 năm 2015, Đảng bộ xã Nam Giang đã long trọng tổ chức Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đại hội đã đánh giá nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cũng như những kết quả đã đạt được, những hạn chế yếu kém trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện. Nghị quyết Đại hội đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho nhiệm kỳ 2015 - 2020. Trong đó, mục tiêu chung là: Tiếp tục phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát huy cao nhất năng lực của các thành phần kinh tế; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài kết hợp với nguồn lực địa phương để đẩy mạnh tốc độ phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, quan tâm giải quyết tốt công tác an sinh xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố xây dựng hệ thống chính trị thực sự vững mạnh với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết cũng đặt ra những mục tiêu chủ yếu:

- Về kinh tế: Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 38.886.500.000 đồng; Sản lượng lương thực có hạt bình quân hằng năm 4.200 tấn; Sản lượng các cây trồng chủ yếu ba vụ trong năm trên diện tích 660 ha, đạt năng suất 6,3 tạ/ha; Tổng đàn gia súc hằng năm: trâu, bò 1.454 con, lợn 1960 con; Số hộ sản xuất, kinh doanh cá thể: tổng số 2.100 hộ, trong đó, 1.390 hộ sản xuất nông nghiệp; 450 hộ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; 300 hộ kinh doanh dịch vụ. Số lượng doanh nghiệp: 09; Số trang trại trên địa bàn: 10; Tỷ lệ tăng thu ngân sách hằng năm 5%; Thu nhập bình quân đầu người/năm 46,1 triệu đồng; Tỷ lệ thôn đạt chuẩn nông thôn mới 100%; Giao thông nông thôn được cứng hóa đạt 90% trở lên.

- Về văn hóa, xã hội, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hằng năm 0,5%; Tỷ lệ hộ nghèo 3 - 4%, hộ cận nghèo 4 - 5%; 100% các hộ gia đình có nhà ở kiên cố; 98 - 99% trẻ em dưới 6 tuổi được tiêm phòng hằng năm; 92,5% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa; 100% các thôn có nhà văn hóa; 75% thôn đạt tiêu chí kiểu mẫu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Về môi trường, 100% dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh; 100% thôn đạt tiêu chuẩn môi trường;

- Về an ninh trật tự, 100% khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự;

- Về xây dựng Đảng, giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hằng năm có trên 90% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; bình quân hằng năm kết nạp được 16 đảng viên mới trở lên.

Nghị quyết cũng đã đề ra 3 chương trình trọng tâm trong nhiệm kỳ:

1. Chương trình phát triển nông nghiệp theo chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Chính phủ. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giảm diện tích trồng lúa còn 300 ha; đưa diện tích cây màu, cây ăn quả có chất lượng hiệu quả cao 5 ha ở những vùng khó tưới nước.

Phấn đấu cơ cấu kinh tế là: giảm tỷ trọng nông nghiệp còn 20%; nâng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản 23,1%; dịch vụ thương mại 56,2%.

2. Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng phát triển đô thị.

3. Chương trình phát triển nguồn nhân lực qua đào tạo, đến năm 2020 đạt 60 đến 70% và nâng cao hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức đến nhiệm kỳ 2020 - 2025 có 100% cán bộ cơ sở có bằng chuyên môn đại học và 100% có trình độ trung cấp lý luận trở lên.

Để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Ban Chấp hành Đảng bộ cũng đã xây dựng chương trình hành động, đề ra các giải pháp chủ yếu để tổ chức thực hiện, trọng tâm là đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới.

Đại hội cũng đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Trần Quốc Tuấn được bầu là Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Thành Tua là Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; đồng chí Lê Văn Minh là Phó Bí thư, phụ trách chính quyền.

Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đặc biệt là chương trình xây dựng nông thôn mới. Sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng ủy, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và đặc biệt là sự ủng hộ của nhân dân, Nam Giang đã đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đặc biệt là thực hiện chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ đã lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chỉ đạo xây dựng và triển khai đề án Đồng Ngâu, được các cấp có thẩm quyền duyệt quy hoạch 67 ha đất vùng thường xuyên bị ánh hưởng do thiên tai, ngập lụt. Đến năm 2018, đã có 11 trang trại với diện tích xây dựng đạt 27 ha đang hoạt động có hiệu quả. Từ năm 2010 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hng năm đạt 17,5%. Sản lượng lương thực bình quân hng năm đạt 4.090 tấn; đàn trâu, bò đạt 843 con; năm 2016 là 1.100 con, năm 2017 là 1.020 con và năm 2018 giảm còn 734 con. Tổng đàn lợn là 6.892 con, riêng năm 2018 là 1.870 con. Từ năm 2010 - 2015, thu nhập bình quân đầu người hằng năm đạt 15,9 triệu đồng. Đến năm 2018, thu nhập bình quân đầu người tăng lên 39,3 triệu đồng.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản có tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 18,4/17%, bằng 108% kế hoạch. Sản phẩm chủ lực của địa phương là sản xuất tiểu thủ công nghiệp với các mặt hàng truyền thống là nghề mộc dân dụng, cơ khí, xây dựng và sản xuất tôn lạnh. Từ năm 2010 - 2018, việc xây dựng nhà ở kiên cố trong nhân dân phát triển mạnh, trung bình hằng năm đạt mức gần 30 tỷ đồng; tốc độ xây dựng trong lĩnh vực công cũng đạt tốc độ cao, đạt 4 tỷ đồng/năm.

Dịch vụ thương mại đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trên 20%. Tham gia hoạt động dịch vụ thương mại thường xuyên, chủ yếu là các hộ dọc quốc lộ 506, có thu nhập cao như đại lý xe máy, đại lý xay xát lúa, dịch vụ vận tải hành khách, cửa hàng vật liệu xây dựng, của hàng vàng bạc, đá quý... Tính đến hết năm 2016, toàn xã có hơn 20 doanh nghiệp và Công ty TNHH (Xe máy, xăng dầu, tôn, máy nông nghiệp, vàng bạc đá quý, đồ gỗ...); có 18 xe ô tô khách và vận tải; có 150 hộ kinh doanh vừa và lớn, có 160 hộ kinh doanh nhỏ lẻ, 2 nhà máy xay xát, có hàng trăm cơ sở sản xuất đồ gỗ, vật liệu xây dựng và các nghề khác. Tổng thu từ các ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại đạt hàng trăm tỷ đồng.

Hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ đã có nhiều chuyển biến tích cực, bám sát vào yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chính quyền về chuyển dịch cơ cấu, bố trí mùa vụ, giống cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hướng dẫn cho hộ nộng dân chăm bón và phòng trừ sâu bệnh kịp thời, cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu đáp ứng được nhu cầu, bảo đảm chất lượng cho nông dân, góp phần đưa năng suất cây trồng, sản lượng lương thực ngày càng tốt hơn; hoạt động dịch vụ điện, đảm bảo cho phục vụ sản xuất và sinh hoạt đúng quy định của ngành.

Xây dựng hạ tầng cơ sở được quan tâm đẩy mạnh. Từ năm 2010 đến năm 2015, đã tiến hành làm mới đường giao thông nông thôn được 3,9 km, mương tiêu trong các khu dân cư 41 km; giao thông nội đồng 1,6 km, giá trị 1,1 tỷ đồng; mương tưới tiêu ngoài đồng 1.250m, giá trị gần 300 triệu đồng; hệ thống cầu cống ngoài đồng giá trị 275 triệu đồng... Xã cũng đã đầu tư xây mới Trạm y tế đạt chuẩn giai đoạn 2, quy mô 14 phòng, 10 giường bệnh, trị giá 3,34 tỷ đồng; xây dựng chuẩn giai đoạn 1 trường Mầm non và trường Tiểu học, giá trị 4,726 tỷ đồng; làm mới nhà bia Di tích lịch sử văn hóa khu mộ bà Hoàng Thái hậu, dự toán 266 triệu đồng; nâng cấp hệ thống truyền thanh trị giá 86 triệu đồng; làm mới Cầu Neo, cầu Phong Lạc trị giá 6,109 tỷ đồng...

Để đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới, cùng với những cơ chế chính sách của Trung ương, của tỉnh và của huyện về hỗ trợ vốn xây dựng nông thôn mới, Ban Chấp hành Đảng bộ, Hội đồng nhân dân xã ra Nghị quyết ban hành một số cơ chế hỗ trợ, kích cầu các thôn và nhân dân đầu tư xây dựng các hạng mục công trình theo tiêu chí nông thôn mới như: Hỗ trợ xây dựng nông thôn mới cho mỗi thôn bằng 50 triệu đồng; khen thưởng đối với các thôn sớm hoàn thành; hỗ trợ mỗi thôn bằng 30 tấn xi măng để hoàn thiện hệ thống lòng lề đường, mương và nắp đậy trong khu dân cư từ nguồn ngân sách xã.

Việc huy động các nguồn lực xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao. Đến hết năm 2016, đã huy động được trên 113,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh: 6,8 tỷ đồng (6,1%); ngân sách huyện 1,3 tỷ đồng (1,2%); ngân sách xã 24 tỷ đồng (21,2%); nhân dân đóng góp 12 tỷ đồng (10,7%). Ngoài ra, nhân dân còn đầu tư vào xây dựng mới và sửa chữa là 68 tỷ đồng (60%). Có 223 hộ đầu tư xây dựng nhà ở mới, gần 200 hộ đầu tư nâng cấp nhà ở và công trình phụ trợ, 482 hộ đầu tư xây dựng mới công trình nhà tiêu hợp vệ sinh. Trong quá trình đầu tư, xây dựng nông thôn mới, xã đã cân đối đủ nguồn lực và không còn nợ xây dựng cơ bản.

 Thu, chi ngân sách đảm bảo đúng quy định. Trong các năm 2010 - 2015, tổng thu ngân sách là 30.535.783.136 đồng; tổng chi ngân sách là 29.722.884.041 đồng. Năm 2018, thu ngân sách nhà nước đạt 903.398 triệu đồng.

Về văn hóa - xã hội: Chất lượng giáo dục có sự chuyển biến rõ nét. Cả 3 trường từng bước được xếp loại cao dần, từ tốp trung bình của huyện đến năm 2015, trường Mầm non được xếp thứ 14 của huyện, trường Tiểu học từ tốp trung bình của huyện, đến năm 2015 đã vươn lên tốp đầu, năm 2017 được công nhận lại trường chuẩn Quốc gia sau 5 năm. Trường Trung học Cơ sở được công nhận là trường chuẩn Quốc gia vào ngày 26/3/2017. Năm học 2017 - 2018, trường Trung học Cơ sở xếp thứ 3/42 trường trong toàn huyện. Từ năm 2010 đến năm 2018, các trường luôn đạt trường tiên tiến cấp huyện.

Đảng ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh thường xuyên chăm lo đến công tác giáo dục. Các trường tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục một cách toàn diện, kết hợp với thực hiện các phong trào thi đua do ngành giáo dục phát động; chất lượng giáo dục đại trà được nâng lên, chất lượng giáo dục mũi nhọn được cải thiện. Từ năm 2010 - 2018, số học sinh được giải thưởng cấp tỉnh, cấp huyện là 335 giải. Trong đó, năm 2016, trường Trung học Cơ sở có 01 giải Quốc gia.

Công tác khuyến học khuyến tài đã có nhiều chuyển biến tích cực. Quỹ khuyến học của các chi hội khuyến học ở thôn được nâng lên, quỹ khuyến học của các dòng họ được duy trì; hằng năm đều có tổng kết và trao phần thưởng cho học sinh và giáo viên có thành tích trong dạy và học. Từ năm 2010 đến năm 2018 đã trao phần thưởng cho trên 2.400 học sinh, hàng trăm giáo viên với số tiền hàng trăm triệu đồng. Trung tâm học tập cộng đồng được duy trì và hoạt động có hiệu quả, chủ động phối hợp với các ngành, các đoàn thể và Hợp tác xã tổ chức các lớp học chuyển giao tiến bộ khoa học và cập nhật các kỹ năng ở nhiều lĩnh vực cho nông dân. Từ năm 2010 đến năm 2018 đã tổ chức trên 220 lớp, với gần 28.000 lượt người tham gia, được xếp loại A của huyện.

Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân; tập trung tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương; nêu gương, biểu dương các điển hình tiên tiến và cá nhân xuất sắc ở các khu dân cư, đặc biệt là công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới.

Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chương trình. Ngay sau khi triển khai đề án xây dựng nông thôn mới, cấp ủy, chính quyền đã định hướng cho các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, ban chỉ huy các thôn tuyên truyền bằng nhiều hình thức nhằm thu hút các tầng lớp nhân dân chung sức xây dựng nông thôn mới. Công tác tuyên truyền được triển khai rộng rãi, thường xuyên, phong phú, đa dạng gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền với vận động, lồng ghép tuyên truyền qua các hoạt động sinh hoạt tập thể, các hội nghị, các cuộc họp tại khu dân cư, qua hệ thống truyền thanh, qua băng zôn, panô, khẩu hiệu, cổ động... từ đó làm cho từng người dân, cộng đồng dân cư nhận thức đầy đủ và sâu sắc, xác định rõ trách nhiệm, vai trò chủ thể trực tiếp thực hiện xây dựng nông thôn mới với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ” thành quả xây dựng nông thôn mới. Trong đó, tập trung tuyên truyền, biểu dương những cách làm hay, những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng nông thôn mới để toàn dân hăng hái tham gia. Từ những cách làm hay, những mô hình điển hình được tuyên truyền kịp thời, sẽ có tác động lan tỏa rộng khắp địa bàn toàn xã.

Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì và từng bước được nâng cao. Tập trung hoạt động vào các dịp lễ tết và đón nhận danh hiệu làng văn hóa; phong trào bóng đá nữ đã hình thành và có chiều hướng phát triển tốt. Năm 2018, Nam Giang tham gia Liên hoan phát thanh huyện Thọ Xuân đạt giải Khuyến khích; tham gia hội thi tuyên truyền lưu động huyện Thọ Xuân đạt giải Ba...

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư có sự chuyển biến rõ nét. Hằng năm đều tổ chức tổng kết vào dịp 18/11 tại các khu dân cư. Tỷ lệ gia đình văn hóa được nâng lên từ 85,2% năm 2010 đến năm 2015 là 89,6%. Có 9/9 làng văn hóa được tỉnh và huyện công nhận danh hiệu làng văn hóa, trong đó có 2 làng văn hóa cấp tỉnh, 7 làng văn hóa cấp huyện.

Triển khai thực hiện Quyết định số 3507/QĐ-UBND, ngày 18/9/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Nghị quyết số 05-NQ/HU, ngày 6/12/2017 của Ban Thường vụ Huyện ủy Thọ Xuân về việc đổi tên, chuyển thôn thành khu phố, sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Ủy ban nhân dân xã Nam Giang đã xây dựng Đề án sáp nhập thôn; Hội đồng nhân dân họp bất thường ra Nghị quyết thông qua Đề án sáp nhập thôn, từ 11 thôn còn 8 thôn, trong đó có 5 thôn giữ nguyên và 6 thôn thực hiện việc sáp nhập, cụ thể:

- Thôn Phúc Như và thôn Phú Gia sáp nhập thành thôn 4;

- Thôn Phong Lạc 1 và Phong Lạc 2 sáp nhập thành thôn 7;

- Thôn Phong Lạc 3 và Phong Lạc 4 sáp nhập thành thôn 8(1).

Sau khi tiến hành sáp nhập thôn, Đảng ủy cũng đã chỉ đạo tiến hành kiện toàn chi bộ, ban công tác mặt trận thôn, các chi hội đoàn thể theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy và các hội, đoàn thể huyện.

Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, cơ sở vật chất được nâng cấp, chất lượng khám và chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên, đội ngũ y tế thôn được củng cố và từng bước trẻ hóa. Năm 2018, đã thực hiện việc khám, chữa bệnh cho 5.473 lượt bệnh nhân. Tỷ lệ người tham gia Bảo hiểm y tế năm 2017 là 78%, năm 2018 đạt 84,6%. Công tác y tế dự phòng, đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng, toàn xã có 67,4% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước hợp vệ sinh là 99%; từng hộ chủ động thu gom và xử lý rác thải, hạn chế tốt nhất tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình tiếp tục đạt kết quả tốt. Đội ngũ làm công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hằng năm 0,52%, đạt kế hoạch đặt ra.

Thực hiện chính sách an sinh xã hội đảm bảo đúng quy định. Lãnh đạo và chỉ đạo việc chi trả các chế độ chính sách cho các đối tượng đúng quy định của Nhà nước, không để xảy ra thắc mắc khiếu nại. Tập trung giải quyết tồn đọng về chính sách đối với người có công theo quy định của Nhà nước; thường xuyên thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các đối tượng chính sách và người có công nhân các ngày lễ tết; thực hiện tốt chính sách đối với hộ nghèo, cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2014 còn 4%, hộ cận nghèo 4,03%. Đến năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,72% (35 hộ); tỷ lệ hộ cận nghèo là 7,28% (148 hộ).

Công tác quốc phòng - an ninh: Hng năm, Đảng ủy có Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, nhiệm vụ tuyển quân. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, cng cố và xây dựng lực lượng quân dự bị động viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, sn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch huấn luyện quân sự nâng cao chất lượng trong huấn luyện; hng năm 100% số dân quân tự vệ đạt yêu cầu về huấn luyện, có trên 75% đạt khá giỏi. Địa phương cũng thực hiện tốt nhiệm vụ tuyển quân. Từ năm 2010 - 2018, có 91 thanh niên nhập ngũ, đạt 100% kế hoạch và hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự đối với huyện và cấp trên. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh làm tốt công tác bảo vệ an ninh thôn xóm, các ngày lễ tết, bảo vệ Đại hội và các dịp bầu cử của địa phương và đất nước.

Hằng năm, Đảng ủy đều ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác an ninh trật tự; tập trung chỉ đạo, lãnh đạo, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ an ninh trật tự, xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Ban công an tăng cường công tác tuần tra canh gác đảm bảo an ninh trật tự và an toàn giao thông, thường xuyên tổ chức diễn đàn công an lắng nghe ý kiến nhân dân, chỉ đạo tổ an ninh xã hộitổ an ninh trật tự tại các thôn để phối hợp gii quyết công việc những vụ việc xảy ra; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể nhất là phối hợp với Hội Cựu chiến binh thực hiện mô hình ba trên một để giáo dục, cảm hóa đối tượng. Duy trì và củng cố, tổ chức hoạt động có hiệu quả công tác an ninh trật tự của ban an ninh trật tự và 11 tổ an ninh trật tự ở 11 thôn, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân yên tâm phát triển kinh tế. Từ năm 2010 đến năm 2018, đã xảy ra 94 vụ việc, trong đó nổi lên là các vụ trộm cắp tài sản, tai nạn giao thông, đánh nhau gây mất trật tự công cộng...

Công tác tư pháp hoạt động có hiệu quả, góp phần vào nhiệm vụ ổn định chính trị - xã hội ở địa phương; thực hiện tốt công tác thẩm định văn bản pháp quy, không để sai sót về mặt văn bản của chính quyền; tham mưu cho chính quyền thực hiện đúng quy định về công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, công tác hòa giải ở 11 tổ hòa giải, công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Đảng ủy có nhiều đổi mới trong việc quán triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, của tỉnh và của huyện. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã được cấp ủy lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, phát huy tính tự giác, trung thực, khách quan, đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, tìm ra nguyên nhân và định hướng khắc phục. Hng năm, gắn việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình cuối năm với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong mỗi tập thể cấp ủy và cán bộ, đảng viên. Tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ và nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để giải quyết và ổn định tình hình địa phương.

Công tác tổ chức cán bộ luôn được cấp ủy xác định là khâu có tính chất quyết định để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tháng 6 năm 2018, đồng chí Nguyễn Thành Tua nghỉ chế độ hưu trí. Thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, tháng 10/2018, Ban Thường vụ đã điều chuyển đồng chí Lê Văn Minh giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy. Đồng thời điều động, chỉ định đồng chí Lê Văn Niệm - Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Nam Giang, giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy. Chỉ đạo Đảng ủy giới thiệu để Hội đồng nhân dân xã Nam Giang bầu đồng chí Lê Văn Niệm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

Đảng ủy thường xuyên quan tâm, phát hiện những đảng viên trẻ, quần chúng ưu tú có đủ phẩm chất, tư cách đạo đức đưa vào nguồn đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho địa phương, từng bước đã đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở địa phương. Đến năm 2018, trong 21 chức danh cán bộ, công chức cấp xã có 6 cán bộ, công chức có bằng đại học, 01 cao đẳng và 14 trung cấp chuyên nghiệp; 16 cán bộ, công chức có bằng trung cấp lý luận chính trị. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công chức của xã đảm bảo về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác trong giai đoạn hiện tại.

Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ nghiêm túc, đảm bảo có sự kế thừa 3 thế hệ, cán bộ nữ, cán bộ trẻ đúng tỷ lệ quy định. Hằng năm đều rà soát đưa ra khỏi diện quy hoạch số cán bộ đã hết tuổi, đưa vào quy hoạch những cán bộ trong độ tuổi; ưu tiên những đảng viên, cán bộ và quần chúng có đủ điều kiện vào quy hoạch để tiếp tục bồi dưỡng, bổ sung và đào tạo cho những nhiệm kỳ tiếp theo.

Hằng năm, Ban chấp hành Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ và nâng cao chất lượng đảng viên. Năm 2015, đảng bộ có 16 chi bộ, trong đó 11 chi bộ thôn, 3 chi bộ trường học, 1 chi bộ trạm y tế và 1 chi bộ hợp tác xã dịch vụ. Cuối năm 2018, sau khi thực hiện công tác sáp nhập thôn, Đảng ủy cũng đã kiện toàn lại các chi bộ. Từ 16 chi bộ giảm còn 13 chi bộ. Ban chấp hành Đảng bộ quy định các chi bộ sinh hoạt định kỳ hằng tháng vào ngày mồng 3; phân công đồng chí Đảng ủy viên phụ trách vòng 2 đến từng chi bộ, trực tiếp dự và chỉ đạo giải quyết những bức xúc, nổi cộm thuộc trách nhiệm ngay tại chi bộ. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 10-CT/TW về nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ. Việc sinh hoạt định kỳ của các chi bộ được duy trì đều đặn; nội dung sinh hoạt được đổi mới, vì vậy, chất lượng kỳ họp cũng như ý thức của mỗi đảng viên được nâng lên. Hằng năm chỉ đạo nghiêm túc việc kiểm điểm, phân loại, đánh giá chất lượng cơ sở Đảng đảng viên. Từ năm 2010 đến năm 2015, số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ đều đạt theo mục tiêu (trên 93%), không có chi bộ yếu kém. 94% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 2016, có 8/16 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 7/16 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 1/16 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2017, có 8/16 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 6/16 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 2/16 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2018, có 5/13 chi bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 8/13 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các chi bộ Cao Thượng, Cao Phong và trường Tiểu học được Đảng ủy khen thưởng.

Công tác quản lý đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm, công tác phát triển Đảng được chú trọng. Từ năm 2010 - 2018, đã giới thiệu, gửi đi học lớp bồi dưỡng lớp nhận thức về Đảng 105 quần chúng ưu tú; kết nạp được 66 đảng viên mới. Chất lượng đảng viên được nâng lên, đảm bảo tính kế thừa và phát triển.

Công tác kiểm tra, giám sát được được tăng cường. Đảng ủy đã triển khai Quy định 30-Q/Đ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về thi hành chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Từ năm 2010 đến năm 2018, đã kiểm tra 42 lượt chi bộ, tiến hành giám sát 13 chi bộ. Năm 2018 đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 01-CT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy; kiểm tra công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Quá trình kiểm tra đã xử lý 01 tập thể và 7 đảng viên vi phạm kỷ luật ở hình thức khiển trách.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể:

Mặt trận Tổ quốc xã đã tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tổ chức các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thành công, đúng luật, an toàn; tổ chức các hội nghị lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân bầu, phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổ chức có hiệu quả hội nghị tiếp xúc cử tri, vận động quỹ “vì người nghèo”. Phát động và thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”. Hng năm đều chỉ đạo các thôn tổ chức hiệu quả, thiết thực ngày hội Đại đoàn kết vào dịp 18/11, tạo không khí vui tươi, phấn khởi và củng cố khối đại đoàn kết trong nhân dân.

Các tổ chức đoàn thể luôn bám sát chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để vận động đoàn viên, hội viên tham gia vận động có hiệu quả, nhất là cuộc vận động “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”, cuộc vận động giúp nhau xoá đói giảm nghèo và các cuộc vận động quyên góp ủng hộ khác; đồng thời các đoàn thể cũng đã làm tốt các chương trình phối hợp khác như: ủy thác vay vốn ngân hàng, quản lý sản xuất, thu gom rác thải bảo vệ môi trường... Thường xuyên chú trọng nâng cao tỷ lệ tập hợp hội viên và xây dựng quỹ hội, tỷ lệ tập hợp đoàn viên thanh niên đạt 78%, Hội Phụ nữ tham gia sinh hoạt trên 75%, Hội Cựu chiến binh đạt 98,5%, Hội Nông dân đạt 72,6%, Công đoàn đạt 100%.

Các tổ chức hội nHội Người cao tuổi, Hội Khuyến học, hội Cựu Thanh niên xung phong, Trung tâm học tập cộng đồng, Hội Nạn nhân chất độc da cam, Hội Chữ thập đỏ... đã tổ chức và xây dựng kế hoạch hoạt động hằng năm, các hoạt động đều bám vào các nhiệm vụ chính trị của địa phương; tổ chức vận động hội viên và nhân dân thực hiện, gắn nội dung hoạt động lành mạnh và thiết thực trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện tốt các phong trào, thực sự động viên khuyến khích, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia.

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị thời kỳ 2010 - 2018, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, phối hợp chặt chẽ của MTTQ và các đoàn thể, sự phấn đấu nỗ lực vượt mọi khó khăn của nhân dân; với tinh thần đoàn kết một lòng, Nam Giang đã giành được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; Chính trị ổn định và giữ vững, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên và cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần, bộ mặt địa phương ngày càng đổi mới, đặc biệt là những kết quả trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Qua 6 năm thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đến hết tháng 10 năm 2016, địa phương đã đạt 19/19 tiêu chí. Hội đồng thẩm định xã đạt chuẩn nông thôn mới của huyện đã tổ chức hội nghị thẩm định và công nhận xã Nam Giang đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Tiếp đó, xã Nam Giang cũng đã được Đoàn thẩm định xã đạt chuẩn nông thôn mới tỉnh công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Ngày 01/11/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 4254, công nhận xã Nam Giang đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Ngày 19/11/2016, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang đã long trọng tổ chức lễ đón nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Có thể nói, qua việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, bộ mặt của xã đã có nhiều thay đổi: Cơ sở hạ tầng thiết yếu được nâng cấp, hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, thu nhập và điều kiện sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Công tác xóa đói giảm nghèo, chính sách đền ơn đáp nghĩa được thực hiện tốt, giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới ngày càng được nhân dân hưởng ứng tích cực, cảnh quan môi trường được sạch đẹp, trật tự xã hội được đảm bảo, quy chế dân chủ được phát huy, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, niềm tin của người dân vào các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền được nâng cao. Người dân tự thấy được và được thực hiện những hành động cụ thể đóng góp xây dựng quê hương mình.

Những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân Nam Giang xây dựng được trong thời gian qua là nền tảng, là động lực để Nam Giang tiếp tục phấn đấu xây dựng thành công xã nông thôn mới nâng cao, tiến tới xây dựng thành xã kiểu mẫu, góp phần xây dựng huyện kiểu mẫu, tỉnh kiểu mẫu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.


 

 

KẾT LUẬN

 

Nam Giang là trung tâm kinh tế - văn hóa của huyện Lôi Dương xưa, có nhiều di tích lịch sử văn hóa, như Văn chỉ, võ chỉ hàng huyện, Đình làng Phong Lạc, Đình làng Phúc Trạch, Đình làng Phúc Như…đặc biệt là Điện Càn Long, liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử, khoa bảng như Vua Lê Thần Tông, Vua lê Huyền Tông, Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu (Oanh), Phạm Thị Ngọc Huyền, hai anh em họ Phạm đỗ Hương cống, người anh làm Tham chính Nghệ An, người em giữ chức Viên Ngoại Lang bộ hình, cử nhân Phạm Tuấn, Phạm Lê Trừng tước hầu đốc trấn Lạng Sơn.

Thời Nguyễn các làng cổ của Nam Giang thuộc 3 tổng: Thượng Cốc, Bất Náo và Nam Dương (Nam Cai), hơn 90% thuần nông, nhân dân đoàn kết gắn bó keo sơn, giàu lòng yêu nước, có truyền thống cách mạng, truyền thống hiếu học. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi, nhiều người con của Nam Giang đã tham gia nghĩa quân chống Pháp.

Những năm đầu thế kỷ XX, sau khi người Pháp hoàn thành hệ thống thủy nông Bái Thượng và con đường bộ từ thị xã Thanh Hóa đi các huyện miền Tây thì các hoạt động giao thương đường thủy, đường bộ ở Nam Giang diễn ra rất sôi nổi “trên bến, dưới thuyền” và trở thành trung tâm kinh tế trong vùng. Nhưng dưới thời đế quốc, phong kiến người dân Nam Giang cơm không đủ no, áo không đủ mặc, sưu cao, thuế nặng, bắt phu, bắt lính cùng với những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan đẩy người dân ngày càng bần cùng hóa.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống đế quốc phong kiến, nhân dân Nam Giang một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia các tổ chức cách mạng như: Hội tương tế Ái hữu, Mặt trận phản đế cứu quốc, Mặt trận Việt Minh, xây dựng các tổ chức đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông hội. Từ đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế đến đấu tranh chính trị, đòi dân sinh dân chủ, chống bắt phu, bắt lính, chống áp bức cường quyền, thành lập lực lượng vũ tranh, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, cùng cả nước khởi nghĩa thành công giành chính quyền về tay nhân dân.

Đất nước vừa độc lập gặp phải muôn vàn khó khăn, quân Đồng minh kéo vào nước ta (miền Bắc quân Tầu Tưởng, miền Nam quân đội Anh). Thực dân Pháp núp bóng quân đồng minh hòng quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trong nước bọn phản động cấu kết với nước ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Nạn đói đầu năm 1945, có nguy cơ tái trở lại, ngân khố quốc gia trống rỗng… Đất nước lâm vào cảnh thù trong giặc ngoài, nền độc lập dân tộc ngàn cân treo sợi tóc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đẩy lùi nạn đói, củng cố xây dựng chính quyền, xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh, đấu tranh làm thất bại âm mưu của bọn phản động. Mở các lớp học xóa nạn mù chữ, xây dựng lực lượng dân quân du kích.

Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam Giang thực sự là hậu phương vững chắc của tiền tuyến, đóng góp tối đa sức người, sức của cho kháng chiến, kiên quốc. Thực hiện “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”, “Lúa nuôi quân”, mua “Công trái quốc gia”, “Công phiếu kháng chiến”,… Để đóng góp cho kháng chiến và nâng cao đời sống nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nam Giang tiến hành giảm tô triệt để và thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều gia đình đã nhường nhà ở cho Nhà nước làm kho tàng, các cơ quan của tỉnh, của Liên khu sơ tán về, các đơn vị bộ đội về học tập chỉnh huấn, chỉnh quân, dân công dừng chân… Với tấm lòng nhân ái, thương người như thể thương thân, nhân dân Nam Giang đón tiếp hàng trăm gia đình tản cư từ ngoài Bắc vào, giúp đỡ nhà ở, đất đai giống má sản xuất, tạo mọi điều kiện để đồng bào sớm ổn định cuộc sống tham gia kháng chiến kiến quốc. Máy bay Pháp nhiều lần thả bom bắn phá vào địa bàn xã, làm chết và bị thương nhiều người dân, thiệt hại nhiều hoa màu, tài sản của nhân dân.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, lớp lớp thanh niên Nam Giang hăng hái lên đường đánh Mỹ, nhiều phong trào cách mạng ở địa phương đã góp phần đóng góp tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến như các phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, phong trào cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ đã khích lệ hàng trăm thanh niên Nam Giang lên đường đánh Mỹ: bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân công trường 101(làm sân bay Sao Vàng), công nhân giao thông vận tải, dân công hỏa tuyến…Có lúc lực lượng lao động sản xuất ở địa phương chỉ còn cụ già, đàn bà và em nhỏ; nhưng với tinh thần làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, vừa sản xuất vừa chiến đấu, dân quân Nam Giang kiên cường độc lập bắn rơi máy bay giặc Mỹ; phối hợp với các đơn vị bạn, bộ đội chủ lực chiến đấu bảo vệ an toàn các mục tiêu kinh tế, thủy lợi, quốc phòng - an ninh trên địa bàn. Máy bay giặc Mỹ cũng nhiều lần đánh phá vào địa bàn Nam Giang như Âu Phong Lạc, cầu Phúc Như…

Trong 10 năm kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975), Nam Giang có gần 700 thanh niên lên đường nhập ngũ, đóng góp cho Nhà nước và chi viện tiền tuyến 7.500 tấn thóc, 310.000kg thịt lơn lợn hơi, 107.000kg gia cầm, vài trăm tấn thực phẩm hàng nông sản, rau quả các loại.

Do có nhiều thành tích đóng góp xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, xã Nam Giang vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, do chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và sự chống phá của bọn phản động và các thế lực thù địch bên ngoài, nền kinh tế trong nước suy thoái trầm trọng, thiếu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; trong khi đó chiến tranh ở hai đầu biên giới Tây Nam và phía Bắc lại nổ ra, những người lính vừa rời quân ngũ, quần áo chưa phai hết mùi thuốc súng vội vã ra mặt trận, lớp lớp thanh niên Nam Giang lên đường bảo vệ biên cương Tổ quốc. Với cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, thiên tai, bão lụt, sâu bệnh, năng suất lúa không cao, bình quân lương thực đầu người từ 100 kg đến 120 kg/năm, thực phẩm và hàng tiêu dùng vô cùng khan hiếm, các thế lực bên ngoài luôn luôn tìm cách quấy phá…

Trong những năm khó khăn gian khổ ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Nam Giang lại tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, hoàn thành các chỉ tiêu lương thực, thực phẩm và tuyển quân hằng năm Nhà nước giao.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới kết hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới, Nam Giang tiến hành quy hoạch đất đai, chuyển đổi mô hình quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khai thác tiềm năng sẵn có, tranh thủ nguồn vốn hổ trợ của huyện, của tỉnh, nguồn lực bên ngoài cùng nguồn vốn nhân dân đóng góp, Nam Giang đã hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng cơ sở như đường điện dân sinh, điện dịch vụ, hệ thống đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, kiên cố hóa kênh mương. Hệ thống giáo dục ba cấp trường: Trường mầm non, Trường tiểu học, Trường Trung học Phổ thông Cơ sở đều đạt chuẩn Quốc gia; Trạm Y tế xã được xây dựng khang trang, dụng cụ vật tư y tế đạt tiêu chuẩn của một trạm y tế cấp xã. Hệ thống nhà văn hóa thôn, Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ, Hội trường công sở xã…với số vốn hơn một trăm tỷ đồng, nguồn vốn được giải ngân, không nợ đọng.

Năm 2016, Nam Giang hoàn thành các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới. Ngày 01 tháng 11 năm 2016, được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa ký Quyết định số 4254/QĐ-UBND công nhận Nam Giang là xã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.

Đã tròn 65 năm thành lập xã, 65 năm thành lập chi bộ, nay là Đảng bộ, theo dòng chảy của lịch sử có lúc thăng trầm, khó khăn, Đảng bộ và nhân dân Nam Giang tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bình tĩnh tháo gỡ khó khăn, vững bước trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới đã đạt được nhiều thành tựu đáng trân trọng.

Từ thực tế của địa phương và những thành tích đã đạt được, Ban chấp hành Đảng bộ nghiêm túc đúc kết ra mấy bài học kinh nghiệm đồng thời định hướng mục tiêu, phương hướng để phấn đấu trong những năm tới như sau:

Một là: giữ vững khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, đặc biệt là vai trò tiền phong gương mẫu, nêu gương của lãnh đạo chủ chốt và các cấp ủy Đảng trước các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên trên cơ sở thực hiện quy chế dân chủ và pháp luật của Nhà nước, coi trọng công tác xây dựng Đảng cả về số lượng và chất lượng, hướng tới mục tiêu xây dựng các chi bộ đảng trong sạch vững mạnh toàn diện; gắn công tác xây dựng đảng với chính trị - tư tưởng và tổ chức.

Hai là: Phát huy cao độ truyền thống tương thân, tương ái, yêu nước thương nòi, truyền thống anh hùng cách mạng của địa phương, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào tình hình cụ thể ở từng giai đoạn và công việc cụ thể; có giải pháp khả thi tích cực và hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương.

Ba là: coi trọng công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; thường xuyên chăm lo củng cố đội ngũ trưởng thôn, trưởng làng có đầy đủ trách nhiệm, uy tín trước nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài, để nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu tạo ra sự đồng thuận tuyệt đối trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng và chính quyền địa phương.

Bốn là: luôn chủ động khai thác tiềm năng, thế mạnh vốn có của địa phương, tranh thủ ngoại lực và sự giúp đỡ của cấp trên; con em của quê hương Nam Giang đang sống xa quê. Công khai, minh bạch hóa các dự án đầu tư, các hoạt động thu chi ngân sách địa phương theo Pháp luật hiện hành. Cổ vũ, động viên kịp thời các tài năng, các tấm lòng hảo tâm với quê hương Nam Giang trong tiến trình xây dựng và phát triển, đặc biệt là thời kỳ xây dựng nông thôn mới nâng cao, tiến tới xây dựng địa phương kiểu mẫu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn về quê hương Thanh Hóa.

Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Nam Giang đạt được trong thời gian qua là một sự nỗ lực cố gắng, nhưng nhìn về phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Nam Giang cần phải nỗ lực hơn nữa để hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới nâng cao ngày một giàu đẹp, xứng đáng với quê hương có truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng đô thị mới trong tương lai.

 


 



([1]). Để người đọc dễ nắm bắt nội dung, mọi chi tiết sự kiện lịch sử diễn ra ở các làng, khu phố mà nay thuộc xã Nam Giang, chúng tôi ghi chung là Nam Giang.

([2]). Báo Ominion (Dư luận), số 8 năm 1914.

([3]). Sưu (thuế thân): Từ 18 đến 60 tuổi mỗi năm đóng 2 đồng 5 hào; ngoài ra người nông dân còn phải đóng thuế điền sản, thổ cư, ao đầm…

([4]). Đồng chí Lê Hữu Lập người xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, là người được Bác Hồ trực tiếp bồi dưỡng kết nạp vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Trung Quốc. Năm 1925, được cử về nước hoạt động.

([5]). Những sự kiện lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân (1926 - 1945).

([6]). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân, tập 1, (1930 - 1945). Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Xuất bản năm 2000.

([7]). Dẫn theo Lịch sử làng văn hóa Cao Phong.

([8]). Tính theo địa danh huyện Thọ Xuân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

([9]). Từ đây những sự kiện diễn ra ở các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ gọi là Nam Giang.

([10]). Lịch sử Việt Nam, tập 2, trang 334.

([11]). Báo “Đuổi giặc nước”, số 12, ngày 13 tháng 11 năm 1944.

(1). Do chính sách cai trị và bóc lột của phát xít Nhật làm cho người dân Việt Nam nói chung, tỉnh Thanh Hóa, huyện Thọ Xuân ta nói riêng lâm vào cảnh bần cùng hóa, năm 1945, người đói phải đi ăn mày diễn ra khắp nơi (chủ yếu là tập trung ở các chơ). Có thể nói thời kỳ này ở khu vực chợ Neo người chết đói có thể gọi là biểu tượng của nạn đói của năm 1945 ở Thọ Xuân thời bấy giờ. Những người chết đói được nhân dân đem chôn ở Bãi Cồn Hà (thuộc Phú Gia ngày nay).

([12]). Đại hội họp tại đình làng Canh Hoạch, xã Minh Nghĩa, nay thuộc xã Xuân Lai. Đại hội II bầu 18 ủy viên chấp hành, đồng chí Phạm Huy Kinh được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

(1). Căn cứ vào giấy giới thiệu ngày 19 tháng 9 năm 1953, của UBKC-HC huyện Thọ Xuân, giới thiệu 2 đồng chí Lê Đình Khánh và Lê Đình Toát thuộc chi bộ Nam Giang, là cán bộ kiểm tra của huyện Thọ Xuân về xã Thọ Ngọc dự kiểm tra thu thuế nông nghiệp vụ chiêm năm 1953 và truy thu thuế năm 1952.

(1). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân (1930-1975), tập I, tr 276, xuất bản năm 2000.

(1). Trong kháng chiến chống Pháp, việc tòng quân được thực hiện theo chế độ tình nguyện, nay Chính phủ thay bằng chế độ nghĩa vụ quân sự. Tháng 4/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 11/SL- Ban hành Luật nghĩa vụ quân sự.

(1). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân, tập I (1930- 1975), Sđđ, Tr 295.

([13]). Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3/1964) - Thanh Hóa - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) - Bộ CHQS Thanh Hóa - xuất bản năm 1994, tr 43.

([14]). Thanh Hóa - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… Sđđ, tr 44.

(1). Tháng 4/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành Luật nghĩa vụ quân sự thời chiến, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu nhiệm vụ chiến tranh. Các sĩ quan, quân nhân phục viên xuất ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự ban hành trước đây được gọi trở lại quân đội.

(1). Trận địa bảo vệ cầu Phúc Như lúc đầu giao cho dân quân xã Nam Giang đảm nhận; khi cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ xảy ra ác liệt, huyện điều 1 tiểu đội dân quân của Bắc Lương tăng cường phối hợp, thay phiên nhau trực chiến sẵn sàng đánh máy bay địch. Ngày 9/9/1967, tổ trực chiến hôm đó có 10 đồng chí (7 dân quân của xã Nam Giang và 4 dân quân xã Bắc Lương) đã bắn rơi 1 máy bay địch.

([15]). Sáng ngày 10/19/1967, Bộ Tư Lệnh Quân khu Hữu Ngạn thông báo vị trí chiếc máy bay bị bắn rơi.

([16]). Lịch sử Lực lượng Vũ trang nhân dân Thọ Xuân, trang 142, Nxb Thanh Hóa, năm 2006.

(1). Ba sẵn sàng: - Sẵn sàng chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập quân đội;

- Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào;

- Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần.

([17]). Ba đảm đang: - Đảm đang sản xuất thay thế chồng con đi chiến đấu;

- Đảm đang gia đình để chồng con đi chiến đấu;

- Đảm đang công tác xã hội và phục vụ chiến đấu khi cần.

(1). Hoàng Ngọc Chương sinh năm 1936, lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, được gia đình, nhà trường và cách mạng giáo dục, khi còn ở địa phương, anh đã hăng hái tham gia các hoạt động của đoàn thể thiếu niên, thanh niên, rồi vào dân quân, vào đội xung kích đắp đê chống lụt và nhiều lần được cấp trên khen thưởng.

Tháng 3 năm 1963, anh lên đường nhập ngũ, ngay từ những ngày đầu đứng trong hàng ngũ QĐND Việt Nam, anh đã tích cực học tập, rèn luyện, gương mẫu trong mọi mặt công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Tháng 1 năm 1965, đơn vị được lệnh sang Lào chiến đấu giúp bạn, anh rất phấn khởi, hăng hái chuẩn bị và động viên giúp đỡ những người khác nhanh chóng ổn định mọi mặt để đơn vị sớm lên đường làm nhiệm vụ.

Tại chiến trường Lào, Hoàng Ngọc Chương đã tham gia chiến đấu 33 trận, luôn nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần cùng đơn vị lập công xuất sắc.

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, đơn vị hành quân suốt đêm đến 8 giờ sáng mới tới vị trí tập kết, thì ngay chiều hôm đó 47 máy bay giặc Mỹ tới oanh tạc vào đội hình trú quân của đơn vị. Từ phút đầu, anh đã có mặt ở vị trí chiến đấu, cùng với khẩu đội bắn rơi tại chỗ 1 chiếc máy bay F101 khi chúng vừa bổ nhào cắt bom. Cay cú vì bị bắn hạ, máy bay Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục bắn phá, làm cho cả khẩu đội bị thương vong, còn một mình nhưng Hoàng Ngọc Chương vẫn không rời vị trí, đảm nhiệm thay thế tất cả các số tiếp tục chiến đấu. Khi súng bị hỏng và được lệnh cấp trên rời khỏi xe, anh lại xung phong đi cáng thương binh, cứu xe bị cháy, rồi lại xin tham gia khẩu đội khác tiếp tục chiến đấu, góp phần xứng đáng vào chiến công chung của đơn vị hôm đó, bắn rơi 9 máy bay giặc Mỹ.

4 giờ sáng ngày 15 tháng 6 năm 1965, 12 chiếc máy bay địch từ nhiều hướng lao tới đánh phá khu vực Na Cay, nơi trú quân của đơn vị. Hai quả bom rơi trúng trận địa làm một số anh em bị thương vong. Tuy súng và người bị đất vùi, Hoàng Ngọc Chương vẫn bình tĩnh bới đất nhanh chóng sửa chữa súng và tiếp tục chiến đấu, góp phần cùng đơn vị bắn rơi 3 máy bay địch.

Trong trận ngày 22 tháng 6 năm 1965, cả đại đội chỉ còn 3 khẩu súng và số người trực tiếp chiến đấu lại thiếu. Đồng chí đề nghị cả y tá và quân khí viên cùng tham gia chiến đấu để sử dụng và phát huy hết hỏa lực của đơn vị. Ngay từ sáng, 16 máy bay địch đã tới đánh phá, 24 quả bom rơi vào trận địa, có quả nổ cách khẩu đội của anh chừng 15 mét, súng bị hóc cả 2 nòng, anh đã cùng đồng đội bình tĩnh sữa chữa, mới chữa được một nòng thì máy bay địch lại lao xuống đánh phá, anh kịp thời lấy hướng, cự ly cho khẩu đội bắn, sau đó lại sữa tiếp nòng thứ hai rồi tiếp tục chiến đấu cùng đơn vị bắn rơi 3 máy bay giặc Mỹ.

Trong chiến đấu cũng như trong mọi mặt công tác, anh luôn gương mẫu nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, nêu cao ý thức tổ chức, giữ nghiêm kỹ luật, khiêm tốn, đoàn kết, được đồng đội tin yêu.

Hoàng Ngọc Chương đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Bằng khen và Giấy khen, là chiến sĩ thi đua năm 1965.

Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Hoàng Ngọc Chương được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (khi được tuyên dương anh hùng anh mới là Hạ sĩ, trung đội phó súng cao xạ 14,5 milimét, thuộc Đại đội 48, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam).

* Trên đây là tóm tắt thành tích được trích trong cuốn đơn vị, cá nhân anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân tỉnh Thanh Hóa - Bộ CHQS Thanh Hóa, xuất bản năm 1995, trang 90-93.

(1). Nhưng việc lấy tên thôn theo số 4, 7, 8 chưa được đông đảo nhân dân chấp nhận, Đảng ủy, HĐND, UBND đã có tờ trình đề nghị lấy lại tên làng cũ theo nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân: Phú Gia, Phúc Như đặt là Phúc Gia, thôn Phong Lạc 1, Phong Lạc 2 lấy tên là Phong Lạc 1; Phong Lạc 3, Phong Lạc 4 lấy tên là Phong Lạc 2. 

Lịch sử xã Nam Giang

Đăng lúc: 28/01/2021 18:37:40 (GMT+7)

                LỊCH SỬ XÃ NAM GIANG

Nam Giang là một xã đồng bằng nằm ở phía Đông - Nam của huyện Thọ Xuân, có đường tỉnh lộ chạy qua giữa xã, là cửa ngõ của huyện Thọ Xuân, là đầu mối giao thông với các huyện phía Tây và vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh Thanh Hóa; có diện tích tự nhiên 543,8 hécta, trong đó diện tích đất trồng trọt là 318 hécta, còn lại là các loại đất khác... Dân số hiện nay 8.204 người/1.890 hộ, được hình thành và phát triển trên cơ sở 7 làng cổ của 3 tổng Nam Dương, Bất Náo, Thượng Cốc, đến nay đã bảy, tám trăm năm. Vùng đất Nam Giang xưa còn được nhà nước phong kiến chọn làm nơi đặt văn chỉ, võ chỉ của huyện Lôi Dương cùng nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn liền với sự phát triển của quê hương như: đình làng Phong Lạc, đình làng Phúc Trạch, đình làng Phúc Như… và đặc biệt là điện Càn Long nơi thờ vua Lê Thần Tông, vua Lê Huyền Tông và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu.

Dưới chế độ thực dân phong kiến, cùng với những hủ tục lạc hậu đẩy người dân đến cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đời sống ngày càng bần cùng hóa.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trên quê hương, đất nước. Từ đây, nhân dân Nam Giang phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ mới với cương vị của người dân một nước độc lập, tự do và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày 21 tháng 8 năm 1953, xã Thọ Long được chia làm 3 xã (Nam Giang, Bắc Lương và Tây Hồ) - Xã Nam Giang chính thức được thành lập, theo đó Chi bộ Đảng xã Thọ Long cũng được chia tách làm 3 chi bộ, ngày 25 tháng 8 năm 1953, Chi bộ Đảng xã Nam Giang cũng được thành lập trên cơ sở các tổ đảng Phúc Như, Phúc Thượng, Phú Gia, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc.

Là miền quê có bề dày về lịch sử văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, xã Nam Giang đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến của mình. Trong chiến đấu bảo vệ địa phương, quân và dân Nam Giang đã độc lập bắn rơi 1 máy bay giặc của Mỹ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, xã Nam Giang có gần 900 thanh niên tham gia quân đội, hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến… Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu có 118 người đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, 241 thương bệnh binh và người bị nhiễm chất độc hóa học, 7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 1 anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều người đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, nhiều người được tặng Huân, Huy chương và Bằng khen, Giấy khen các loại, gần 60 người trưởng thành trong quân đội, công an được phong quân hàm từ Thiếu tá đến Đại tá…

Ghi nhận những đóng góp của Đảng bộ và nhân dân Nam Giang trong hai cuộc kháng chiến, Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu “Đơn vị anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho nhân dân và Lực lượng vũ trang Nhân dân xã Nam Giang.

Bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ xã, thực hiện cơ chế thị trường, kinh tế địa phương không ngừng tăng trưởng, các công trình văn hóa phúc lợi cũng lần lượt được xây dựng như:: điện, đường, trường, trạm, nhà văn các thôn, 85 đến 90% nhân dân sản xuất bằng cơ giới hóa. Công tác quốc phòng và an ninh được đảm bảo, các tổ chức chính trị hoạt động đều và mạnh là mũi nhọn của các phong trào ở cơ sở. Đặc biệt là giai đoạn từ 2010 đến nay, Ban chấp hành Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế từng bước có hiệu quả, tiêu biểu là dự án phát triển kinh tế đồng Ngâu. Toàn xã hiện nay đã có hơn 20 trang trại (trong đó có 11 trang trại tập trung ở đồng Ngâu), 20 doanh nghiệp và hơn 500 hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ đang hoạt động có hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm con em trong xã và có nhiều đóng góp xây dựng quê hương. Năm 2016, Nam Giang là xã đứng tốp đầu trong huyện hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới và đang tiếp tục phấn đấu hoàn thành xã nông thôn mới nâng cao trước năm 2020.

Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/HU, ngày 25/3/2007 của Ban Thường vụ Huyện ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác sưu tầm, biên soạn lịch sử”; Công văn số 103-CV/HU, ngày 07/12/2015 của Huyện ủy Thọ Xuân về việc nâng cao chất lượng nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống địa phương; Ban chấp hành Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã chủ trương sưu tầm, biên soạn và xuất bản cuốn sách “Lịch sử xã Nam Giang”, nhằm ghi lại quá trình hình thành và phát triển của quê hương qua các thời kỳ lịch sử.

Cuốn sách gồm 6 chương nội dung và phần kết luận:

- Chương I: Điều kiện tự nhiên và quá trình hình thành làng xã.

- Chương II: Vùng đất Nam Giang những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945

- Chương III: Chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt, tiến tới thành lập xã Nam Giang, cùng cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1945 - 1954)

- Chương IV: Xã Nam Giang trong thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 - 1975)

- Chương V: Xã Nam Giang trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1995)

- Chương VI: Xã Nam Giang trong thời kỳ Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới (1996 - 2018).

Trong từng chương, mục đã phản ánh đậm nét quá trình hình thành, phát triển của mảnh đất và con người Nam Giang trong từng thời kỳ của lịch sử, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Ban chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo nhân dân từng bước tiến hành sự nghiệp đổi mới của Đảng đạt được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh…

Cuốn “Lịch sử xã Nam Giang” được hoàn thành và ra mắt bạn đọc, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Nam Giang xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Thọ Xuân, các đồng chí nguyên là cán bộ chủ chốt xã Nam Giang qua các thời kỳ, các đồng chí Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, Hiệu trưởng các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở, Trưởng Trạm y tế xã… đã cung cấp tư liệu, góp phần thành công của cuốn sách. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh và sự tàn phá của thời gian, nguồn tư liệu đã bị mai một, các nhân chứng trước và trong chiến tranh phần lớn đã qua đời, người còn thì đã cao tuổi không còn minh mẫn, cùng với sự hạn chế về thời gian, về vật chất và nhiều lý do khách quan khác, cuốn sách sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự cảm thông và góp ý chân thành để lần tái bản nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh phong phú hơn.

 


Chương I

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ QUÁ TRÌNH

HÌNH THÀNH LÀNG XÃ

 

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Xã Nam Giang là một trong 41 xã, thị trấn của huyện Thọ Xuân. Phía Bắc giáp xã Bắc Lương; phía Nam giáp xã Xuân Sơn, Thọ Lộc; phía Tây giáp xã Tây Hồ; phía Đông giáp xã Xuân Phong, Thọ Nguyên.

Diện tích tự nhiên 543,8 ha;

Dân số: 8.204 người/1.890 hộ

Đất đai của xã nằm ở phía Đông - Nam của huyện Thọ Xuân, một vùng trù mật, cận thị cận giang. Nam Giang là điển hình của một vùng đồng bằng, trung du: Không có đồi núi, không có ao hồ lớn, có đường tỉnh lộ chạy qua giữa xã, là đầu mối giao thông với miền núi và vùng đồng bằng phía Đông của Thanh Hóa. Từ miền ngược về miền xuôi, từ miền xuôi lên vùng đồi núi phía Tây đều phải qua Nam Giang. Từ đây đi về phía Đông 32 km là thành phố Thanh Hóa, đi tiếp 16 km là Sầm Sơn. Từ thành phố Thanh Hóa ra Bắc hay vào Nam, đi tầu hỏa hoặc ô tô vào Nghệ An hay ra Hà Nội chưa đến 3 giờ đồng hồ. Từ Nam Giang đi về phía Tây 3 km là đến thị trấn Thọ Xuân và theo đường 47 lên khu Di tích Lam Kinh chỉ 20 km. Từ Mục Sơn ra Bắc hay vào Nam có đường Hồ Chí Minh ra Hòa Bình, Hà Nội hay vào Nghệ An, Hà Tĩnh, qua Tây Nguyên đều có đường nhựa, đi lại dễ dàng nhanh chóng. Ngày xưa người đi thuyền chỉ 3km là đến bờ sông Chu (Lương Giang), rồi từ đây qua đêm trên thuyền là đến bến Hàm Rồng đem theo cau, chè, gạo... cho miền xuôi rồi từ đây đem về mắm, muối, cá cho chợ Neo, cho cả dân vùng Neo, Vực, Láng.

Từ Nam Giang vào Thành phố Hồ Chí Minh hay ra nước ngoài có đường hàng không. Sân bay Sao Vàng (Cảng hàng không Thọ Xuân) chỉ cách Nam Giang hơn 10 km. Từ Nam Giang lên Bái Thượng cũng chỉ 20 km rồi đi lên Lang Chánh, Bá Thước, Quan Sơn chỉ một buổi sáng là lên đến đất của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Nam Giang cũng là một trong các xã được hưởng lợi từ đập thủy nông Bái Thượng.

Trên dòng sông Chu, người Pháp đã xây dựng đập thủy nông Bái Thượng. Đây là công trình thủy lợi lớn nhất xứ Đông Dương thời bấy giờ. Công trình này phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa và vơ vét thóc gạo của thực dân Pháp.

Sau 7 năm thi công 28/3/1920 - 01/1926), công trình đập Bái Thượng và toàn bộ hệ thống kênh, mương đã được hoàn thành. Công trình chính thức được bàn giao cho Sở Thủy nông vào ngày 27/8/1926 để hoạt động từ đây. Sau khi hoạt động công trình thủy nông sông Chu (đập Bái Thượng) đã đảm bảo tưới nước cho trên 50.000 ha đất canh tác ở trong tỉnh (trong đó có Thọ Xuân và Nam Giang).

Là vùng tiếp giáp giữa hai nền khí hậu của đồng bằng Bắc Bộ và Khu 4 cũ, nối tiếp đồng bằng với miền núi, nên trong mặt bằng chung, khí hậu của Nam Giang vẫn là nền khí hậu của khu vực nhiệt đới gió mùa. Ngoài những yếu tố chung, khí hậu ở đây vẫn có những yếu tố khác biệt, đặc thù riêng vì nằm ngay bờ sông Chu nên khí hậu có phần thoáng mát hơn. Theo số liệu điều tra khảo sát của các cơ quan khí tượng thủy văn trong tỉnh, trong huyện thì các số liệu về khí hậu Nam Giang như sau:

Nhiệt độ bình quân năm 23.40C, mùa hè nóng, mùa đông lạnh, những ngày nóng diễn ra trong tháng 6, ngày nóng nhất lên tới 390C, ngày lạnh nhất vào cuối tháng 12 có những năm dưới 90C. Mùa hè trung bình vào khoảng 28 - 300C, mùa đông trung bình 250C, năm cao nhất 270C. Tháng 12 năm 2007 và tháng 1 năm 2008 nhiệt độ xuống 70C.

Độ ẩm trung bình 86%, cao nhất 96% và thấp nhất 67%.

Hằng năm có hai mùa thay đổi.

- Mùa đông có gió mùa Đông Bắc thường rét khô và hanh thổi từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau.

- Mùa hè có gió mùa Đông Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8, đưa hơi nước từ biển vào làm khí hậu mát mẻ và có mưa. Mùa hè còn có gió Tây Nam (gió Lào) thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 7 gây nóng và khô hạn, thời gian gió Tây 12 đến 15 ngày, chia ra nhiều đợt, trung bình mỗi đợt từ 2 đến 3 ngày, đợt dài 5 đến 6 ngày (gió này gây ảnh hưởng đến lúa xuân, ngô xuân gieo trồng muộn).

Hướng gió thịnh hành là Đông và Đông Nam, tốc độ trung bình 1,3m/s, lớn nhất 20m/s.

Từ tháng 7 đến tháng 10 thường có bão đổ bộ từ biển vào, tốc độ gió thường ở cấp 6 - 7, cá biệt có trận cấp 9 - 10 kéo theo mưa to, gây tác hại đến cây trồng và các công trình kiến trúc.

Lượng mưa trung bình trên dưới 1.860mm, năm cao nhất 2.947mm (1925), năm thấp nhất 1.459 (1936), tháng mưa cao nhất là tháng 9, có những năm đến 15 ngày mưa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa chính chiếm 85% lượng mưa cả năm, tập trung vào 3 tháng (8, 9, 10), lượng mưa trong 3 tháng này chiếm 50 - 60% lượng mưa cả năm, đây là giai đoạn thường gây ra lũ lụt. Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa khô. Tổng lượng nước các tháng này khoảng 105 - 108mm, bằng 10 - 15% lượng mưa cả năm.

Lượng bốc hơi nước bình quân một năm là 707,5mm. Số ngày có sương mù trong năm từ 21 - 26 ngày, thường xuất hiện tập trung vào các tháng 10, 11 và tháng 12 có tác dụng tăng thêm độ ẩm không khí và mặt đất.

Với lượng mưa và nhiệt độ như vậy có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển cây lương thực, đặc biệt là cây lúa và rau màu.

Tiếng nói và âm tiết của người Nam Giang là tiếng nói và âm tiết điển hình của người Thọ Xuân, một số người phát âm chuẩn nhưng còn mang nặng dấu ấn phát âm của người Việt cổ.

Về hưu phát âm là viền hiu

Nước phát âm là nác...

Sau này do có quan hệ với nhiều người Bắc, nhiều người nhập cư nên tiếng nói của người Nam Giang đã lai dần, gần giống ngữ âm hiện đại.

Nam Giang là đất có truyền thống học hành thi cử, ngày xưa học trò học bằng chữ Hán, thứ chữ do các quan cai trị người Trung Quốc du nhập sang. Các văn bản nhà nước, sách vở, thư từ giao dịch đều bằng chữ Hán, cũng còn gọi là chữ Nho, chữ thánh hiền. Sau này, người Việt Nam theo mẫu tự chữ Hán rồi giản hoặc thêm nét, sáng lập ra thứ chữ mới gọi là chữ Nôm (thế kỷ thứ XVII). Chữ Nôm là chữ của người Việt. Người biết chữ Hán mới học được chứ Nôm. Người Trung Quốc dù giỏi chữ Hán cũng không đọc được chữ Nôm.

Ngày xưa cả làng góp tiền mời một cụ đồ (thường là người Nghệ An - đồ Nghệ). Cũng có nhà giàu có mời riêng thầy cho con cháu học. Học 10 năm thì thành tài (tục ngữ có câu “thập niên đăng hỏa” - 10 năm đèn sách). Mỗi phủ có một trường học. Phủ (huyện) Thọ Xuân mở trường năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị để dạy con em những gia đình khá giả. Trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến (1075 - 1919) Nam Giang có 6 người đậu Hương cống, Cử nhân làm quan tri huyện, huấn đạo. Có thể kể tên các vị đã thi đỗ Cử nhân và Hương cống ở xã Nam Giang như sau:

1. Phạm Tuấn, người xã Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, đỗ Cử nhân khoa thi Ất Mão đời vua Tự Đức (1855), làm quan trải qua các chức: Tri huyện Tiên Minh (Vân Đình - Sơn Tây, nay là Hà Nội), giáo thụ phủ Thọ Xuân. Ông người làng Kim Bảng, dòng dõi họ Lê (nay là Phạm Lê), hậu duệ của Tiến sĩ Lê Hiệu (Nghệ An) và vợ là Phạm Thị Hiền. Phạm Tuấn là lớp con cháu của Lê Trừng (con của Lê Hiệu) ra ở Quả Nhuệ để lo việc thờ cúng tổ tiên của Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu (em ruột của bà Hiền). Ra Thanh Hóa, ông Trừng lấy họ Phạm Lê. Ngày nay, con cháu của Phạm Trừng đông đúc. Theo gia phả của họ Lê (Nghệ An) thì Phạm Tuấn đã dẫn cả họ Phạm Lê (Nam Giang) vào Nghệ An thăm mồ mả, nhà thờ họ Lê.

Hiện nay, ở xã Xuân Phong còn lưu giữ tấm bia (đời vua Khải Định thứ 8 - 1923) ghi rõ Phạm Tuấn là cháu xa đời của Phạm Trừng. Văn bia cho biết, ông đậu Tú tài 7 khoa nhưng vẫn kiên trì học tập và đến khoa thi thứ 8 (1855) mới đậu Cử nhân.

2. Lê Đức Đôn: Người xã Quả Nhuệ, đậu Cử nhân đời Minh Mệnh (1830), làm quan Tri huyện.

3. Lê Huy Cung, người làng Quả Nhuệ, đậu Cử nhân đời Tự Đức (1867).

4. Lê Hữu Tuấn, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống (1702).

5. Lê Doanh Lập, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống (1714).

6. Lê Cảnh Huy, người làng Quả Nhuệ, đậu Hương cống đời Lê.

Với đa số người dân, việc học chữ Hán không nhằm đào tạo các nhà khoa bảng mà cốt cho con em có ít chữ thánh hiền, biết làm các văn tự, khế ước, thờ cúng ông bà tổ tiên. Học để làm người có ít nhiều hiểu biết để đối nhân xử thế chứ không phải học để làm quan. Đến nay trong xã còn vài cụ cao niên có thể đọc được các văn bản Hán - Nôm. Việc học ngày xưa chưa thành nề nếp mà hình như chỉ những gia đình kinh tế khá giả mới đủ điều kiện cho con cái theo đòi bút nghiên. Làng, xã có văn chỉ thờ các vị tiên hiền, các nhà khoa bảng.

Khi việc học hành, thi cử bằng chữ Hán kết thúc (năm 1919) thì những lớp học chữ Nho vẫn tồn tại. Mục đích của việc học ở đây khác với việc học kiểu khoa cử để đào tạo quan lai mà chỉ nhằm mở mang dân trí, nên khi không còn thi cử Hán học, dân ta vẫn cho con em đi học. Có khác là các lớp học chữ Hán có mở thêm việc học chữ Quốc ngữ. Việc học chữ Quốc ngữ ở các lớp học cũng chỉ nhằm mục đích cho người học biết đọc, biết viết để đọc các giấy tờ của phủ, huyện gửi xuống. Người biết chữ viết giúp người không biết chữ đơn từ, khế ước. Các văn bản ấy phía dưới thường đề họ tên người viết, còn chủ nhân thì điểm chỉ. Người điểm chỉ dùng ngón tay cái bôi mực đen (thường là nhọ đèn dầu hoả) đặt lên văn bản.

Từ sau năm 1920, trong xã đã có một số người biết chữ Quốc ngữ (chữ đọc theo ký tự a, b, c ...). Đây là thứ chữ do các nhà truyền giáo sáng tạo để đọc kinh, sau được dùng phổ thông trở thành Quốc ngữ. Học Quốc ngữ dễ hơn học Hán Nôm, chỉ cần thuộc mặt 24 chữ cái rồi chép lại thành chữ, thành câu.

Từ đây các văn bản của làng được dùng cả hai ngữ văn: Hán - Nôm và quốc ngữ và cũng từ đây chữ Nôm không còn là Quốc ngữ, nhưng các văn tự vẫn còn dùng. Ông Lý trưởng của làng khi làm văn bản trình quan phủ dùng cả hai loại văn tự, sau này chữ Quốc ngữ trở thành thứ văn tự chính thức. Lúc đầu các cụ đồ vừa dạy cho học trò chữ Hán, chứ Quốc ngữ và có khi cả chữ Pháp. Chữ Quốc ngữ là thứ chữ dễ học, dễ nhớ chỉ cần vài ba tháng người học có thể đọc thông viết thạo, làm thơ, viết văn.

Sau những năm 20 của thế kỷ XX, Thọ Xuân có trường Tiểu học chuyên dạy bằng chữ Quốc ngữ. Sau đó Nam Giang có trường sơ học dạy cho học sinh đến lớp đầu cấp. Trường mang tên là trường Phú Gia và tồn tại đến năm 1945 (năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám trường có 18 học sinh lớp 5, 15 học sinh lớp 4).

Ngày xưa mỗi làng có hội đồng chức dịch. Hội đồng chức dịch có:

- Lý trưởng: Phụ trách công việc chung của làng, giữ đồng triện (đồng triện của Lý trưởng hình chữ nhật). Giúp việc Lý trưởng có Phó lý.

- Hương bạ: Coi việc sổ sách, nhân khẩu, khai sinh, giá thú, tử tuất, thổ trạch. Khi có người chết chủ hộ phải khai báo với hương bạ. Hương bạ cũng có đồng triện hình bầu dục.

- Hương kiểm: Chịu trách nhiệm trật tự, an ninh, có đội tuần phiên, làng có điếm canh phòng ngày đêm nhất là những năm mất mùa, trộm cắp nhiều.

- Hương bản: Giữ quỹ và tài sản chung của làng.

- Hương mục: Trông coi đê điều, đồng ruộng.

Về sau có thêm:

- Hương dịch: Trông coi việc dọn dẹp đường xá.

- Hương thư: Coi việc giấy tờ, văn thư.

- Hương nông: Coi việc khuyến nông, mương máng, tưới tiêu.

II. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ

Những tư liệu lịch sử còn để lại khẳng định các làng Phúc Thượng, Phúc Hạ, Phúc Như, Phú Gia, Cao Phong thuộc tổng Nam Cai; Kim Bảng thuộc tổng Thượng Cốc; Phong Lạc thuộc tổng Bất Náo là những làng cổ được lập từ cuối đời Trần đến đời Lê.

- Làng Phúc Trạch Thượng (còn gọi là làng Phúc Thượng): Theo gia phả của một số dòng họ thì làng Phúc Trạch Thượng được thành lập đã gần 700 năm. Chuyện kể lại khi đi đánh giặc ở phía Nam trở về qua vùng đất này có bốn quân nhân, một người họ Đinh, một người họ Hoàng, một người họ Trần và một người họ Lưu. Khi đi qua vùng đất Cổ Lôi (Thọ Xuân ngày nay), thấy đất đai bằng phẳng, lại có dòng thủy trạch chảy qua, rất tiện lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và đánh bắt thủy sản. Bốn người bàn nhau xuất ngũ và đem gia quyến đến khai hoang lập ấp. Là một vùng đất hẻo lánh, xa chốn kinh thành, hội tụ đủ ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa nên mỗi người ở một vùng đất tiền thân của làng Hội Hiền (Tây Hồ), Phú Gia, Phúc Như và hai làng Phúc Trạch Hạ, Phúc Trạch Thượng (Nam Giang) ngày nay. Lúc đầu cả bốn làng đều có tên là làng Biên (bên dòng Thủy Trạch).

Đến đầu thời Lê, dân cư phát triển, để tiện cho việc quản lý hành chính, làng Biên được chia làm 4 làng đó là Hội Hiền (xã Tây Hồ), làng Phú Gia, làng Phúc Như và làng Biên Trạch Giang (sau chia thành 2 làng Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ).

- Làng Phúc Trạch Hạ được chia ra từ làng Phúc Trạch Thượng từ đời Minh Mệnh. Cả 2 làng đều thuộc tổng Bất Náo. Bất Náo là vùng đất có nhiều người đậu Cử nhân, Tiến sĩ nên được các đời xây dựng văn chỉ, võ chỉ của huyện Lôi Dương. Chợ Neo cũng là trung tâm giao lưu kinh tế, hàng hóa của cả tổng, lúc đầu chỉ là một đón nhỏ sau thành chợ Neo, thuộc địa phận làng Phúc Trạch Hạ, là một chợ lớn, trung tâm giao lưu hàng hóa (chủ yếu là nông, lâm, thủy sản giữa miền xuôi và miền núi xứ Thanh.

Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra ác liệt, đồng bào Liên khu 3 đã tản cư vào vùng tự do, Thọ Xuân là một điểm đến của đồng bào ngoài Bắc, nhiều gia đình đã chọn Nam Giang là điểm tập kết. Nhân dân trong xã đã nhường nhà cho bà con ở tạm, chính quyền đã cắt đất (chủ yếu là ở khu vực chợ Neo) tạo điều kiện cho bà con làm nhà ở và làm ăn, buôn bán hàng hóa… Từ đó đã hình thành một khu phố (phố Neo) và phố Neo đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của khu vực thời bấy giờ.

Hai làng Phúc Trạch có chung đình làng và thờ một Thành hoàng là Cao Sơn Đại vương. Cao Sơn tên thật là Cao Hiển, tự là Văn Trường, người Bảo Sơn, Trung Quốc, đỗ Tiến sĩ Cập đệ năm 24 tuổi, niên hiệu Tống Hy Ninh, làm quan chức Thừa tướng, Đại nguyên soái. Năm 72 tuổi cáo quan, đem gia đình sang Việt Nam. Vua nhà Lý nước ta sai ông sang trấn thủ hai trấn Thanh Hóa - Nghệ An. Ông thi hành chính sách chính trị khéo léo, bởi thế được người đời quý trọng. Năm ngoài 100 tuổi về núi Đại Liễu, huyện Đông Thành phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An, lập cho mình cung thờ rồi mất, chôn tại đó. Khi Lê Lợi đi đánh quân Minh, có vào đền thờ ngài cầu khấn, khi thắng giặc về tạ lễ và phong sắc “Đường cảnh Thành Hoàng Cao Sơn quốc chủ linh hiển Thượng đẳng phúc thần Đại vương”. Tuy làng Biên Trạch Giang chia làm hai làng nhưng vẫn thờ thành hoàng chung ở Đình Neo, cùng chung một phong tục tập quán, đoàn kết gắn bó như cùng chung một làng. Hằng năm vào ngày 9, ngày 10 tháng Giêng âm lịch, hai làng mở hội Kỳ Phúc, tưởng nhớ đến vị Thành hoàng, cầu mong mùa màng tốt tươi. Ngoài phần tế lễ còn có phần hội như rước kiệu, đánh đu, đánh cờ.

- Làng Phúc Như được hình thành vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, lúc đầu có tên là trang Xuân Đài, do một số dòng họ Lê Viết, Lê Sỹ, Phạm Duy đến khai hoang lập nghiệp. Tiếp đến họ Lê Văn, Lê Thế, Lê Đức người làng Phúc Tọa, Cao Phong đến nhập trang, lúc này mới có 20 gia đình. Đất rộng, người thưa, đất đại thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, họ Phùng Xuân, Nguyễn Văn, Đào Văn từ ngoài Bắc vào mua đất làm nhà, đem theo nghề dệt vải, bán hàng tấm, hàng sáo. Lúc này trang Xuân Đài đổi thành làng Cầu Tiên. Khi thực dân Pháp đào sông nông giang Bái Thượng, làng đổi thành làng Phúc Như và giữ tên đó cho đến ngày nay. Vào năm 1945, làng có thêm họ Vũ Đình gốc ngoài Bắc vào thị xã Thanh Hóa rồi lên Phúc Như nhập làng làm nghề nung vôi. Đến đây, làng Phúc Như có đủ ba thành phần: nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.

- Làng Phong Lạc: Phong Lạc là vùng đất cổ. Thời Lý là địa phận của huyện Di Phong, Cư Phong; thời Trần thuộc huyện Cổ Lôi; thời Lê thuộc huyện Lôi Dương; thời Nguyễn thuộc tổng Bất Nạo, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa. Qua các thời kỳ lịch sử, Phong Lạc được gọi bằng các địa danh: Bài Khu Trại, Bài Tang Trại (làng Đềnh), Phong Lạc, Hợp tác xã bậc thấp Tân Tiến (03 thôn bên trước: Phong Cốc, Phong Thịnh, Phong Đình) và Tân Thành (3 thôn bên sau: Tân Phong, Tân Giang, Xóm Sở). Khi tháp nhập hai HTX Tân Tiến và Tân Thành đặt tên là HTX Thống Nhất, một thời gian sau đổi tên thành Hồng Lạc, khi tiến lên HTX bậc cao toàn xã thì gọi là khu III. Hiện nay làng Phong Lạc chia thành 2 thôn: Phong Lạc 1, nằm bên tả ngạn sông Nông giang, bao gồm các thôn: Phong Cốc, Phong Thịnh, Phong Đình (trước đây); Phong Lạc 2, nằm phía hữu ngạn sông Nông giang gồm các thôn: Tân Phong, Tân Giang và xóm tản cư gần âu Phong Lạc. Do địa thế và thiên nhiên ưu đãi, các bậc tiền nhân của làng đã chọn hướng Nam, lấy Na Sơn (núi Nưa) làm án tiền, sông Lương (sông Chu ngày nay) làm hậu chuẩn, chọn sông nhà Lê làm nguồn tụ thủy lập làng. “Đất lành chim đậu”, quá trình lập làng giữ nước, cư dân các nơi về quần tụ đem theo sắc thái văn hóa riêng của từng vùng quê Việt, tạo thành một bản sắc riêng của Phong Lạc được kết tinh, chắt lọc qua nhiều thế kỷ - một sắc thái của người Việt cổ vô cùng độc đáo. Từng gia đình trong làng vẫn giữ được phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên và thổ công, táo quân tại nhà, từng dòng họ có nhà thờ riêng để các bậc tiên hiền sau 5 đời trở về nhà thờ tổ. Cư dân Phong Lạc không đi theo tôn giáo nào nhưng chắt lọc được tín ngưỡng đa thần giáo. Đình làng thờ Thành hoàng; chùa thờ Phật; miếu thờ Thánh. Dấu ấn đa thần thời gian còn lưu lại ở các địa danh xứ đồng: “Đình Chùa”: (vị trí làng thời tiền sử) là địa điểm kiến tạo đình và chùa đầu tiên khi mới lập làng. “Cồn Nông”: đàn thế Thần Nông để cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; “Cồn Cáo”: đàn tế trời đất theo tiết xuân thu nhị kỳ để dân làng có thể giao hòa cùng trời đất. Hằng năm cứ vào ngày 23/9 Âm lịch - ngày mất của nhân thần Lê Đức Đạt, vị tướng của Nhà Lê được tôn vinh làm Thành Hoàng làng, dân làng tổ chức lễ hội tại đình làng, các thành phần chính của buổi lễ như: Chủ tế, Đông sướng, Hộ lễ... đều được chọn hết sức kỹ càng. Lễ vật đem dâng cúng ở đình làng phải được giám sát kỹ từ khâu chuẩn bị vật phẩm cho đến khi hoàn thiện đưa vào mâm lễ. Phần hội được tổ chức hết sức công phu từ trò diễn đến trò chơi dân gian.

Theo thần phả để lại, sau khi mất tại nơi làng lập ngôi đình, nhiều tháng con ngựa chiến của ngài Lê Đức Đạt cứ quanh quẩn bên phần mộ của chủ. Ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1534) con vật tiết tháo với chủ cũng kiệt sức và chết. Từ đó ngày 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm làng thường làm cỗ lớn để cúng tế ở đình làng.

Những tín ngưỡng văn hóa ấy nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh cầu mong cho con cháu các dòng họ trong làng đời đời hiếu thuận, có đủ sức mạnh và trí thông minh để nhìn xa, trông rộng, phát đạt, hiển vinh, tránh được tai ương, bệnh tật. Bởi lẽ đó, ngày nay đến Phong Lạc, bất cứ ai cũng dễ nhìn thấy sắc thái văn hóa riêng: Phong Lạc lịch lãm, chịu thương chịu khó, cần cù, giản dị, mộc mạc chân thành... và truyền thống yêu nước, thương nòi, sống có nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ những người sa cơ lỡ vận, nhưng cũng đầy quyết đoán trong công việc mưu sinh.

Về học hành khoa cử: Phong Lạc có nhiều người học hành đỗ đạt đại học, cao đẳng thoát ly làm việc trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, làng có Tiến sĩ Toán học Lê Huy Hoàng tốt nghiệp tại Đức, và có nhiều người đi ra làm ăn thành đạt đã có nhiều đóng góp về vật chất và tinh thần xây dựng quê hương.

- Làng Phú Gia: Làng Phú Gia cũng được thành lập một thời với làng Phúc Trạch và được tách ra vào đầu thời nhà Nguyễn. Người các nơi lần lượt đến khai hoang lập nghiệp ngày một đông như: họ Trịnh, họ Hoàng ở Yên Trường, họ Lê ở Bái Đô (Xuân Bái), họ Nguyễn ở Yên Đỗ (Hải Dương), họ Phùng ở Hà Tây (cũ).

Sau khi chia làng, làng Phú Gia có thêm các dòng họ khác đến lập nghiệp như: họ Lê Khắc ở Nam Hà, họ Đặng ở Khúc Thụy, họ Đoàn, họ Lê Trọng ở Hoằng Hóa, họ Cao ở Nam Hà, cùng về đây hội tụ sinh sống.

Trước Cách mạng Tháng Tám, làng Phú Gia mới có 16 hộ, đến năm 1948, làng có thêm dòng họ Lê Huy từ Hoằng Hóa tản cứ đến nhập làng. Lúc này làng đã có 17 hộ, 120 nhân khẩu. Năm 1958, khi thành lập Hợp tác xã nông nghiệp, một số dân ở làng Phúc Trạch chuyển về làng Phú Gia, từ đó làng lại có thêm các dòng họ: Họ Đào, họ Phạm Duy, họ Lê Ngọc, Lê Trọng, Lê Văn, họ Trần, Lê Khả, Nguyễn Văn, Nguyễn Duy, Lê Viết, Lê Nhật...

Là một vùng đất cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, lại do nhóm 4 quân nhân thời Trần khởi tổ lập làng, nên phong tục tập quán và tín ngưỡng như nhau. Làng Hội Hiền lập ông Đinh Thời Dĩnh làm Thành hoàng; làng Phú Gia lập ông họ Lưu làm Thành hoàng; hai làng Phúc Trạch và Phúc Như lập hai ông họ Trần và họ Hoàng làm Thành hoàng. Do sự biến đổi của xã hội, đến nay thần phả, sắc phong và di hiệu của vị Thành hoàng họ Lưu đã bị thất truyền.

Hằng năm, làng Phú Gia mở hội vào mồng chín và mồng mười tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm tế Thành hoàng, tế ông tổ các dòng họ, cầu mong cho con người khỏe mạnh, dân làng thanh bình, người yên vật thịnh, rước kiệu từ làng Phú Gia đến các làng Hội Hiền, Phúc Trạch, Phúc Như. Hội làng có đánh đu, cờ tướng, hát ca công. Theo truyền thuyết, 4 quân nhân thời Trần khi về khai hoang lập nghiệp ở làng Biên có kết nghĩa anh em, tôn ông Đinh Thời Dĩnh làm anh cả, ông họ Hoàng làm anh hai, ông họ Trần làm anh ba, và ông họ Lưu là em út. Vì thế mà bốn làng kết chạ giao hiếu với nhau, cùng giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, chống chọi với thiên nhiên, giặc giã, trộm cướp, xây dựng cuộc sống. Người làng Phú Gia có truyền thống đoàn kết, cần cù lao động, ham học hỏi, sống có đạo lý, nghĩa tình.

- Làng Cao Phong: Cư dân làng Cao Phong là người ngoài Bắc vào định cư từ đời Trần. Đầu thế kỷ XV, quân Minh sang xâm lược nước ta, tiêu diệt nhà Hồ, đặt ách thống trị hà khắc lên đất nước ta. Không chịu làm nô lệ, Lê Lợi và các chiến hữu chọn Lam Sơn là nơi tụ nghĩa. Hào kiệt bốn phương về tụ nghĩa dưới cờ của Bình Định vương Lê Lợi. Trong đoàn người ấy có một số người thuộc dòng họ Phạm Hữu, Phạm Duy từ xã Sơn Minh - huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam. Họ cùng gia đình đến sinh sống ở vùng đất chưa khai phá được bao nhiêu và khá màu mỡ này. Gia phả của các dòng họ để lại cho biết, những người dân Sơn Nam đầu tiên đến đây thấy cảnh quan tươi đẹp, thế đất kỳ vĩ tươi tốt có thể làm nơi an cư lạc nghiệp đời đời do có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nơi đây không xa mấy (16km) là đất chiến khu Lam Sơn, thuận lợi cho việc đi về. Từ Sơn Nam có thể đi theo đường thiên lý Bắc - Nam hoặc qua lối Nho Quan (Ninh Bình) vài ngày đường là có thể đến nơi ở mới. Nhờ đất tốt, khí hậu ôn hòa nên người từ các nơi tiếp tục kéo về đây lập nghiệp. Hiện nay làng có 15 dòng họ sinh sống.

Dưới triều Hậu Lê, làng có nhiều người thi đỗ làm quan. Họ Phan có 2 người là anh em ruột thi đỗ Hương Cống (Cử nhân). Người anh làm quan đến chức Tự Thừa Thiếu Khanh - Tham chính xứ Nghệ An và người em giữ chức Viên Ngoại Lang ở Bộ Hình - tước Đường Thái Nam. Hai ông không có con nối dòng, làng lập đền thờ và lập làm Thành hoàng của làng.

Đời Minh Mệnh (1820 - 1840), một người thanh niên của làng là ông Lê Đăng Khoa được phong là Bách Hộ Tướng quân. Thời Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương, làng có nhiều người tòng nghĩa đánh giặc. Lịch sử ghi tên tuổi của những người làng Cao Phong đã cầm súng chống Pháp ngay từ ngày chúng đặt chân lên đất Thanh Hóa như: Tú tài Phạm Duy Điển, đội Tiệm tên là Lê Đình Hùng... Các ông đã chiến đấu khắp vùng Thanh - Nghệ dưới quyền của Trần Xuân Soạn, Cầm Bá Thước, Phạm Bành, Hà Văn Mao.

Người Cao Phong phần lớn là dân di cư từ mọi miền đất nước đến, đặc biệt là dân vùng Sơn Nam nên đem theo tín ngưỡng, phong tục tập quán và lối sống của vùng châu thổ sông Hồng. Tháng Giêng, làng mở hội vào ngày 10 để tế Thần hoàng làng là Cao Sơn Đại vương Thượng đẳng Phúc thần và Lê Lam Phúc thần. Lê Lam là Thần của dân làng, người có công mở đất mở làng, còn Cao Sơn là vị thần hiển linh sống đến 103 tuổi, được dân tôn thờ, trải qua các thời đại Lê, Nguyễn đều có sắc phong. Hai vị quan lớn họ Phạm của làng có nhà thờ riêng, đến dịp làng mở hội đều được dân rước kiệu về đình để tế lễ phối hương. Cuộc rước được diễn ra từ sáng sớm tinh mơ. Đi đầu là kiệu và dàn bát âm, đi từ đình làng (nơi thờ Cao Sơn và Lê Lam) đến đền thờ 2 quan lớn, ra văn chỉ đến làng Đống Nãi. Đoàn rước ngày một nối dài do có người thập phương về dự. Khi trở về đình làng yên vị, cuộc tế bắt đầu. Mở đầu là bài Chúc văn của vị chủ mạnh ca ngợi công đức của các vị Thần hoàng, các quan lớn, các ông tổ của các dòng họ. Thiện nam, tín nữ của các làng trong vùng cũng đến dân hương, lễ bái, cầu cho quốc thái dân an. Song song với lễ là hội. Làng có trò chơi dân gian như đu quay, đánh vật, cờ tướng, hát đối. Có năm làng còn mời các phường bội về diễn các tích trò cổ. Đình làng được làm từ thời Nguyễn trước khi Pháp xâm lược nước ta, do dân làng góp công, góp của được xây dựng bằng gỗ lim có đường kính từ 35 đến 40 cm. Người trong làng cao tuổi góp cột cái, người ít tuổi hơn góp cột con, ít tuổi hơn nữa góp đòn tay, rui, mè. Ông Lê Viết Huy góp ngói lợp mái.

Làng Cao Phong trở thành một làng quê êm ả, có giếng nước, sân đình, có nơi thờ Thần hoàng và các vị tiên hiền, tiên liệt, có người ra lính lập được công trạng, có người học hành đỗ đạt làm quan và cao hơn cả là làng có một thiết chế văn hóa, có văn chỉ ghi nhớ thờ phụng ông tổ của Nho học và bia đá ghi danh những người đỗ Trung khoa, Tiểu khoa. Có thể nói, từ mấy thế kỷ trước, trải qua các triều Lê đến Nguyễn, làng Cao Phong đã được coi là một làng có văn hóa. Tuy ở chốn thôn dã nhưng không quá quê mùa, cư dân khắp nơi về đây khai hoang lập ấp đã đem theo cả phong tục, tập quán, nếp sống thanh lịch của vùng Sơn Nam và sự cần cù siêng năng, khôn khéo của những người nghèo phải rời quê hương đi kiếm sống.

- Làng Kim Bảng:

Ngày xưa có hai ông tên là Lý Ứng, Lý Lam quê tận xứ Đông (tỉnh Hải Dương) là tướng giỏi đã lập nhiều chiến công trong thời nhà Trần chống quân Nguyên Mông, có thể vì thất sủng với triều đình nên đành phải lánh nạn vào đây.

Đó là vào một ngày cuối Hạ đầu Thu, sau một chặng đường dài vất vả, trời đã xế chiều, thấy gốc cây Trôi to, hai ông dừng chân nghỉ lại. Bụng đói miệng khát, họ ứa nước mắt nói với nhau: “Âu cũng là số trời đã định, anh em mình chắc không qua khỏi đêm nay”. Bỗng một cơn gió mạnh thổi qua, những quả Trôi chín vàng rụng xuống. Hai ông đưa vào miệng nhai thử. Có ai ngờ vị chát chua của trời, vị ngọt bùi của đất tụ vào vỏ quả đã trả lại sinh lực cho ông Lam, ông Ứng.

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, hai ông ngỡ ngàng bởi nơi đây quả là một vùng đất đẹp. Cây cối xanh tươi, chim thú từng bầy nên đã quyết định ở lại dựng trại và gọi dân các nơi về sinh sống.

Lúc đầu cuộc sống rất vất vả vì thức ăn chủ yếu là hái lượm quả cây, bẫy bắt thú rừng. Sau hai ông hướng dẫn dân chặt cây, lấp đầm, lấy đất trồng lúa và tỉa ngô, kê.

“Đất lành chim đậu”, dân tứ xứ dồn về mỗi lúc một đông. Ai cũng ví vùng đất này như một trái cây mọng ngọt nuôi sống con người, nên đã đặt tên là Trại Quả (Quả có nghĩa là kết quả, là điểm dừng và còn hàm ý nhắc đến quả Trôi đã cứu sống ông Ứng, ông Lam).

Trải qua đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, người dân Trại Quả (sau gọi là làng) luôn thể hiện rõ bản lĩnh kiên cường, giàu nhuệ khí nên đã đặt thêm chữ Nhuệ phía sau thành làng Quả Nhuệ.

Dân cư ngày một đông, địa dư ngày một rộng. Hai ông Lam, Ứng bàn với dân chia làng ra làm đôi. Nửa phía trên gọi là làng Quả Nhuệ Thượng, nửa phía dưới gọi là làng Quả Nhuệ Hạ (sau này bỏ chữ Nhuệ gọi tắt là làng Quả Thượng và làng Quả Hạ). Ngày nay Quả Thượng là làng Kim Bảng.

Những năm cuối đời, ông Lam, ông Ứng xuất gia nhập thiền, làm việc thiện.

Vào một đêm cuối mùa Xuân, bỗng trời nổi mưa to, sấm lớn, hai ông bỏ am bỏ làng ra đi. Cả làng chia nhau đi tìm nhưng chỉ thấy dấu ông Lam đi về hướng Tây và đến một bãi rậm ở làng Neo Trung (nay thuộc xã Bắc Lương) thì mất. Sáng ra tìm lại chỉ thấy một đống mối đùn to như chiếc mộ chôn.

Biết là ông đã quy tiên, cả làng thương tiếc rước bài vị ông về làm lễ tang trọng vọng và tôn là Thành hoàng thờ ở đình làng. Hiện ở Neo Trung nơi ông mất vẫn có đền thờ ông. Đình làng Quả Thượng vẫn lưu truyền câu đối:

“Tướng Lý phù Trần Chiêu vỹ liệt

Xuất Thần nhập Phật Diệu huyền cơ”.

III. ĐIỆN THỜ VÀ BIA KÝ

Ở xã Nam Giang có điện Càn Long và các tấm bia đá ghi về sự tích bà Phạm Thị Ngọc Hậu, vua Huyền Tông.

- Điện Càn Long:

Càn Long điện là nơi thờ vua Lê Huyền Tông và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu cùng các vị tiên tổ dòng họ Phạm - Lê ở thôn Kim Bảng, xã Quả Nhuệ, tổng Thượng Cốc, huyện Lôi Dương, nay là thôn Kim Bảng, xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Điện được xây dựng trên một khu đất cao, rộng 3 mẫu 6 sào ở phía Nam thôn Kim Bảng.

Sử sách cũng như Ngọc phả nhà Lê cho biết: “Vua Huyền Tông băng, táng ở Lôi Dương, xây Lạc Thịnh lăng và Triều Long điện để phụng sự. Lạc Thịnh lăng còn gọi là Quả Thịnh lăng, cũng gọi là Cảnh Trị lăng theo niên hiệu của Huyền Tông. Còn Triều Long điện tức Càn Long điện theo nghĩa đen chỉ điện của nhà vua.

Cảnh Trị lăng ở chùa cổ đất Phong Lạc. Mộ mẫu hậu vua Huyền Tông cũng nằm ở vùng này. Ngôi mộ Hoàng Thái hậu trong quan ngoài quách, luyện bằng vỏ sò đập nhỏ với mật và vôi nhào đã bị đập nát, nay đã được yên vị trở lại. Một số đồ thờ phát hiện trong mộ như: chuỗi ngọc, quạt giấy đã được cất giữ để thờ phụng tại điện Càn Long. Còn Cảnh Trị lăng đã được tu tạo.

Rời lăng Cảnh Trị đi khoảng 1,5km nữa là đến địa điểm của điện Càn Long ở thôn Kim Bảng. Văn bia “Công đức trường lưu” (ở địa điểm của điện Càn Long) có đoạn chép: “Khi Huyền tông Mục hoàng đế băng hà, linh cữu được đưa về mai táng ở lăng của Nhuệ Doanh, gọi là Quả Thịnh và cũng nhân đó mà xây dựng điện miếu để tôn thờ gọi là điện Càn Long. Nhà vua ra sắc chỉ, cho phép bản xã (quê ngoại nhà vua) giữ chức chấp thư (chức quản lý điện miếu), cấp cho xã Thanh Nghĩa, quê ngoại nhà vua, thờ phụng ngày sinh, ngày kỵ, hương hỏa bốn mùa tôn nghiêm mãi mãi.

Khi lăng và điện đã hoàn tất, năm tháng thờ phụng thật là linh thiêng. Đối với các vị tiên tổ bên họ ngoại cũng đều được quy về điện miếu để phối thờ. “Việc phụng thờ như vậy, Hoàng Thái hậu đã lo xa chu đáo từ trước”. Ngoài việc xây điện Càn Long, bà Ngọc Hậu còn cho xây dựng ở quê nhà (thôn Kim Bảng) một ngôi chùa nổi tiếng để thờ Phật - đó là chùa Cẩm Long.

Điện Càn Long xưa bề thế, tôn nghiêm, chủ yếu thờ vua Huyền Tông, nhưng cũng thờ vọng cả cha mẹ vua, phối thờ thêm các bậc tiền nhân bên họ mẹ vua, bài trí hết sức rực rỡ. Hai đạo sắc năm Cảnh Hưng 22 (1761) và 32 (1771) cũng đặc biệt ân thưởng cho Phạm Trừng (một trong những hậu duệ của Hình bộ thượng thư họ Lê và bà Hiền) tước Quả Xuân hầu vì đã có công chủ trì việc xây dựng điện Càn Long, kế thừa việc thờ tự bên ngoại nhà vua.

Về dòng họ Lê Viết theo “Lê kỷ tục biên” - một cuốn sử của dọng họ cho biết: Ông Phạm Đình Kiên ở phủ Thiệu Thiên lên sống ở làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, tức làng Kim Bảng, xã Nam Giang ngày nay. Ông Kiên lấy bà Chu Thị Loan người xã Thanh Nga, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên sinh ra hai con gái là Ngọc Hiền và Ngọc Hậu. Ông Kiên mất, ba mẹ con nhờ đặt được mả ông vào phúc địa nên đúng như lời tiên tri trước đây “nhất giá công hầu, nhất giá vương” (nghĩa là: một người lấy công hầu, một người lấy vua). Bà chị là Ngọc Hiền lấy được công hầu là ông Tiến sĩ họ Lê (tên là Lê Hiệu - con Tiến sĩ Thượng thư đương triều Lê Kính) người thôn Trường Sơn, xã Quan Trung, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, làm tới chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tá lý Công thần Hình bộ Thượng thư, tước Quế Phương hầu. Còn bà em thì năm 19 tuổi duyên trời run rủi ra kinh đô, gặp vua Lê Thần Tông, nhà vua liền lấy làm vợ, sinh ra Huyền tông Mục Hoàng đế nên được tôn phong làm Hoàng Thái hậu.

Ở khu vực điện Càn Long hiện nay còn có tấm bia “Công đức trường lưu” khắc 4 mặt chữ Hán. Bia cao 1,65m, rộng 0,71m, khắc năm Chính Hòa thứ 7 (1686). Nội dung bia cùng với bài văn trong bản khắc gỗ đặt trên bàn thờ tổ họ Phạm Lê ở Kim Bảng, Hoàng Thái hậu Ngọc Hậu bàn với bà Ngọc Hiền cho con trai thứ (của mình) về Kim Bảng thờ tự họ ngoại, tức họ sinh ra chi họ Phạm Lê.

Nội dung bia chia làm 4 phần: 1. Phụng sự bi ký (Bia ghi việc thờ cúng); 2. Công đức trường lưu (công đức lưu lại lâu dài); 3. Đệ niên tuần nhật (Ngày tuần tiết trong năm); 4. Tế tự thường nghi (nghi thức thông thường để tế tự). Bốn mặt ghi chủ yếu nói về đức tôn phong thờ cúng của mẹ con vua Huyền Tông đối với các tiền nhân bên họ ngoại vua gồm: Hiển khảo (bố Hoàng Thái hậu), người được gia phong làm Thái bảo Vị quận công; Hiển tỷ (mẹ Hoàng Thái hậu), người được gia phong làm Thái bảo Vị quận công phu nhân; Hiền tổ khảo (ông nội Hoàng Thái hậu), tên húy là Đình Tiến, gia phong Thiếu bảo Hà quận công; Hiển Tổ tỷ (bà nội Hoàng Thái hậu), họ Lê, tên húy là Ý, gia phong Thiếu bảo Hà quận công phu nhân; Tiền tằng tổ khảo (cụ Hoàng Thái hậu), tên húy là Đình Biểu, gia phong Đô đốc đồng tri Hải Triều hầu; Hiển tằng tổ tỷ (cụ bà), họ Lê, tên húy là Tín, gia phong Đô đốc đồng tri Hải Triều hầu Chính phu nhân.

Điện Càn Long tuy đã bị phá rỡ, nhưng những hiện vật còn lại trong di tích, nhất là tấm bia “Công đức trường lưu” có giá trị về lịch sử và mỹ thuật Việt Nam thời Lê Trung hưng.

- Bia lăng Cảo Thịnh (thường đọc là Quả Thịnh) ở xã Quả Nhuệ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Phú Hồ hàn lâm hiệu lý và Nguyễn Đình Xuân hàn lâm hiệu lý, soạn. Nguyễn Danh Vọng, Lễ bộ Tả thị lang, tước Vinh Ngạn nam, nhuận chính. Phạm Thiềm, Tăng lục Tá quốc hòa thượng, tước Diệm Cương nam, khắc. Phạm Trừng, tước Dực Bình hầu, coi khắc. Tạo năm Chính Hòa thứ 7 (1686) nhà Lê. Bia 1 mặt, khổ 77x120cm. Chạm mặt trời, rồng, mây, hoa cuộn. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, gồm 20 dòng, khoảng 500 chữ.

Văn bia lăng vua Lê Huyền Tông, gọi là lăng Cảo Thịnh, ở xã Quả Nhuệ, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là quê của Hoàng Thái hậu (mẹ vua). Vua tên húy là Duy Vũ, sinh ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1654), là con của vua Lê Thần Tông, em của vua Lê Chân Tông, mẹ là Hoàng Thái hậu họ Phạm. Sau khi vua Lê Thần Tông băng hà, Hoằng tổ Dương vương (tức chúa Trịnh Tạc) và các quan văn võ tôn Duy Vũ lên ngôi (tức Huyền Tông) vào ngự ở chính điện để thừa nối đại thống. Từ năm Quý Mùi (1663) đổi niên hiệu là Cảnh Trị. Vua sửa sang kỷ cương, thi hành nhân chính, dân chúng khắp nơi trong nước ca ngợi là bậc thánh quân. Đáng tiếc là vua mất sớm, chỉ ở ngôi được 9 năm (1662 - 1671). Ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi (1671) vua băng, thọ 18 tuổi, thụy hiệu là Huyền Tông Mục hoàng đế.

Là một vùng quê có bề dày lịch sử và văn hóa, truyền thống yêu nước, được coi là trung tâm văn hóa, kinh tế của huyện Thọ Xuân xưa. Nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân Nam Giang vô cùng cực khổ, sống trong cảnh nô lệ lầm than. Từ khi có Đảng Cộng sản ra đời lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, tự do dân tộc, người Nam Giang mới được làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.


 

 

Chương II

VÙNG ĐẤT NAM GIANG

NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1945

 

I. VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI

Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, các làng cổ thuộc xã Nam Giang ngày nay thuộc 3 tổng của phủ Thọ Xuân. Các làng Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Cao Phong, Phúc Như thuộc tổng Nam Dương (Nam Cai). Làng Phong Lạc (còn gọi là làng Đình vì làng có một ngôi đình to nhất trong tổng), thuộc tổng Bát Náo (Bất Náo). Làng Kim Bảng thuộc tổng Thượng Cốc, khoảng trên dưới 600 hộ, chưa đến 3.000 nhân khẩu, nghề nghiệp chủ yếu là làm nông nghiệp, cấy lúa nước, những nơi đất cao trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, đậu, lạc vừng, chăn nuôi gà, vịt...

Do sản xuất nông nghiệp manh mún lạc hậu, chưa có hệ thống thủy lợi tưới tiêu, điều kiện sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, phần lớn diện tích cấy lúa hằng năm của các làng chỉ cấy được vụ Mười, một số diện tích đồng trũng cấy được lúa vụ Năm nhưng năm được mùa bình quân khoảng 70 - 80 kg thóc một sào. Do nông nghiệp không phát triển cung không đủ cầu, nhân dân các làng làm thêm một số nghề phụ như: nghề mây tre đan, nghề hàng sáo, vào rừng lấy củi, nghề sơn tràng và buôn bán nhỏ. Phần lớn nhà ở trong các làng lợp tranh, thưng phên hoặc trát đất, rất ít gia đình có nhà ngói. 95% dân số mù chữ, chỉ có một số người biết chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Người dân ốm đau chỉ biết cầu cúng hoặc uống thuốc Nam, thuốc Bắc, thường xuyên xảy ra dịch bệnh như: đậu mùa, tả lỵ, đau mắt đỏ. Nạn hữu sinh vô dưỡng thường xuyên xảy ra khiến bình quân tuổi thọ người dân không cao.

Từ khi đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị cực kỳ phản động, dã man và tàn bạo. Chúng thực hiện chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành 3 kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ), đặt mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau (Nam Kỳ thuộc địa, Trung Kỳ bảo hộ, Bắc Kỳ nửa thuộc địa nửa bảo hộ). Tỉnh Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ, nằm dưới quyền bảo hộ của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn trực tiếp cai trị.

Bên cạnh tòa Công sứ (cơ quan bảo hộ của thực dân Pháp), bộ máy cai trị của nhà Nguyễn ở Thanh Hóa gồm: Tổng đốc, Án sát, Bố chính và Lãnh binh. Bộ máy hành chính cấp dưới là: Tri châu người Việt đứng đầu, cùng một số Nha lại, Đội lính quản lý các mặt hành chính, an ninh xã hội. Chính quyền cơ sở gồm: trên làng là tổng, có Cai tổng, Phó tổng; làng có Lý trưởng, Phó lý quản lý. Về danh nghĩa, bộ máy hành chính cai trị của chính quyền thực dân phong kiến ở Thanh Hóa mang tính lưỡng hệ, nhưng thực chất mọi quyền hành đều tập trung vào tay thực dân Pháp mà đại diện là tòa Công sứ. Chính quyền nhà Nguyễn (Nam triều) vẫn được thực dân Pháp duy trì để làm tay sai và lừa bịp nhân dân. Vì vậy, nhân dân ta phải chịu sự đè nén, bóc lột gấp đôi, một bên là chính quyền thực dân Pháp và một bên là chính quyền phong kiến Việt Nam.

Ngay từ khi đặt chân lên đất nước ta, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân cả nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi lên. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, các sĩ phu yêu nước ở Thanh Hóa đã nổi lên chống thực dân Pháp. Nga Sơn có cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt; Vĩnh Lộc có cuộc khởi nghĩa của Tống Duy Tân; Bá Thước có cuộc khởi nghĩa của Hà Văn Mao; Thường Xuân có cuộc khở nghĩa của Cầm Bá Thước.

Là một vùng quê có chiều dày về lịch sử văn hóa và truyền thống yêu nước, nhiều sĩ phu yêu nước ở Nam Giang([1]) đã đứng lên hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp: Phong Lạc có các ông Lê Đình Mễ, Lê Đình Bạch...; Làng Cao Phong có Tú tài Phạm Duy Điểu, Lê Đình Phùng…đến năm 1889, phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung cơ bản đã thất bại. Các sĩ phu yêu nước ở Nam Giang, người thì lên miền rừng núi tránh sự truy bắt của kẻ thù, người thì về quê nhờ vào sự che chở của nhân dân để đợi thời cơ tiếp tục chống Pháp.

Sau phong trào Cần Vương thất bại, cùng với sự tước đoạt quyền tự do dân chủ, chính quyền thực dân phong kiến thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Chúng sử dụng bạo lực chính trị và quân sự, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc trong nội bộ nhân dân để dễ bề cai trị.

Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đây là cuộc chiến tranh của các nước đế quốc nhằm phân chia lại thuộc địa và thị trường thế giới. Chiến tranh vừa nổ ra, toàn quyền Đông Dương lập tức tuyên bố: “nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương (Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia) phải cung cấp cho chính quốc (Pháp) tối đa nhân lực, vật lực, đồng thời phải duy trì trật tự an ninh ở thuộc địa”([2]).

Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đã huy động ở Việt Nam 93.000 người kể cả lính chiến và lính thợ ra chiến trường làm bia đỡ đạn cho Pháp. Nam Giang có nhiều người bị bắt vào lính, có người ra đi ngày kết thúc chiến tranh còn được trở về sum họp với gia đình được gọi là “Ông Bếp” cũng có người vĩnh viễn nằm lại nơi đất khách quê người.

Kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), tuy nằm trong phe thắng lợi, nhưng nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Nền nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, giao thông vận tải bị đình đốn, giảm sút trầm trọng. Số nợ quốc gia của Pháp đã tăng lên 300 tỷ phơ-răng; số tiền 14 tỷ phơ-răng cho Sa Hoàng (Nga) vay coi như mất trắng; số vàng dự trữ ở Pa-ri không cánh mà bay sang NewYoork (Mỹ) và ngân hàng Luân Đôn (Anh).

Để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và củng cố địa vị của mình trong thế giới tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn tư bản tài chính Pháp một mặt tăng cường bóc lột quần chúng lao động trong nước, mặt khác đẩy mạnh đầu tư khai thác các xứ thuộc địa, trong đó Đông Dương (Việt Nam, Lào, Căm Pu Chia) được xem là thuộc địa “quan trọng nhất, phát triển và giàu có nhất” trong tất cả các xứ thuộc địa của Pháp trên thế giới. Tính đến năm 1929, Pháp đã mở ở nước ta 50 công ty nông nghiệp, 46 công ty công nghiệp, 19 công ty mỏ, 31 công ty thương nghiệp với số vốn lên tới 4 tỷ đồng.

Cũng đến thời gian trên, Pháp đã chiếm đoạt ruộng đất lên đến 1,2 triệu ha để làm đồn điền, bằng ¼ diện tích canh tác của cả nước ta thời bấy giờ.

Ở Thọ Xuân, Pháp mở nhiều đồn điền như: Phúc Địa, Vạn Lại, Điền Trạch, Mã Hùm. Nguồn lao động ở các đồn điền này chủ yếu là người Thanh Hóa và các tỉnh ngoài Bắc như: Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Công nhân được trả những đồng lương rẻ mạt. Nhiều người ở Nam Giang vào làm ở các đồn điền, hầm mỏ, cuối cùng vẫn phải trở về quê hương, có người một đi không trở lại. Việc thực dân Pháp chiếm đất lập đồn điền đã ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận nhân dân Nam Giang làm nghề lấy củi và khai thác lâm sản.

Nhằm khai thác ồ ạt triệt để lâm sản và khoáng sản ở tỉnh ta, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người Pháp cho mở nhiều tuyến đường từ thị xã Thanh Hóa lên các châu, huyện miền núi, trong đó có đường 47, từ thị xã Thanh Hóa qua các làng Phong Lạc, Phúc Trạch Hạ, Phúc Trạch Thượng. Từ năm 1920, người Pháp cho xây dựng hệ thống thủy nông Bái Thượng, đến năm 1926 thì hoàn thành. Nhờ có hệ thống thủy nông này mà diện tích cấy lúa của Nam Giang từ một vụ trở thành hai vụ. Nam Giang trở thành vùng đất đắc địa “thứ nhất cận giang, thư nhì cận lộ”. Hai tuyến giao thông thủy bộ chạy qua, sản xuất nông nghiệp lại chủ động nguồn nước tưới, nhưng vì kỹ thuật sản xuất nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, phần lớn đất đai lại nằm trong tay địa chủ, cùng với sưu cao thuế nặng([3]), phu phen tạp dịch nặng nề, hủ tục lạc hậu khiến đời sống nhân dân Nam Giang ngày một khổ cực, quanh năm đầu tắt mặt tối mà đói rách vẫn hoàn đói rách.

Cùng với sự bóc lột về phu phen tạp dịch, sưu thuế nặng nề, chính quyền thực dân Pháp còn dùng chính sách “ngu để trị”. Cả phủ Thọ Xuân vào những thập niên đầu thế kỷ XX chỉ có một trường Tiểu học ở phố huyện, sau có thêm trường Quảng Thi, Bái Thượng, Tứ Trụ; mỗi năm dạy vài trăm học sinh từ lớp một đến lớp năm, nhưng cũng chỉ các gia đình khấm khá mới có điều kiện cho con đến trường học tập.

Là một vùng quê có truyền thống hiếu học, ngay từ những năm 1930, Nam Giang đã có trường Tư thục Giếng Chùa Phong Lạc. Trường học đã góp phần nâng cao dân trí không những cho nhân dân Phong Lạc mà còn cho các làng lân cận. Do đó, từ năm 1930 đến năm 1945, Nam Giang nhiều người học hành đỗ đạt. Làng Phúc Như có 7 người đỗ tuyển sinh và sơ học yếu lược; 6 người có bằng Tiểu học Pháp - Việt. Các làng khác như Phong Lạc, Cao Phong, Phúc Thượng, Phúc Hạ, Kim Bảng, Phú Gia cũng đều có người đỗ sơ học yếu lược, Perime. Đội ngũ trí thức này phần lớn sau này tham gia cách mạng, trở thành cán bộ đảng viên trong phong trào cách mạng 1936 - 1945 ở Nam Giang.

Nam Giang là một vùng quê có chiều dầy về lịch sử văn hóa, truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường bất khuất. Vào những năm 1925 - 1926, nhiều thanh niên yêu nước Thọ Xuân đã tìm đến đồng chí Lê Hữu Lập([4]) tham gia Hội đọc sách báo, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và hình thành các tổ chức cách mạng trên quê hương yêu dấu của mình.

Đồng chí Nguyễn Mậu Sung người làng Quần Kênh, tổng Kiên Thạch, huyện Thọ Xuân là người có công đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào con tim, khối óc nhân dân Thọ Xuân. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung tham gia Hội đọc sách báo ở thị xã Thanh Hóa, được tổ chức cử về Thọ Xuân truyền bá tinh thần yêu nước và xây dựng tổ chức cách mạng.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, cuối năm 1926, tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội các làng Quần Kênh (Xuân Giang), Mỹ Lý (Bắc Lương), Thượng Vôi (Xuân Hòa), Yên Trường (Thọ Lập), Yên Lược (Thọ Minh) được thành lập.

Cũng từ năm 1926, Thanh Hóa nói chung và hai phủ Thọ Xuân, Thiệu Hóa nói riêng có hai tổ chức cách mạng song song cùng hoạt động, đó là Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và tổ chức Tân Việt cách mạng đảng, gọi tắt là đảng Tân Việt. Thọ Xuân và Thiệu Hóa do các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Lê Ngọc Huỳnh, Hà Duyên Đạt trực tiếp chỉ đạo. Phong trào Tân Việt lan rộng ở các làng thuộc hai huyện như: làng Phong Cốc, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Xá Lê (Xuân Minh), Canh Hoạch (Xuân Lai), Vân Lộ, Phong Bái (Thọ Nguyên), Vực Trung, Vực Thượng (Xuân Thành), Phúc Bồi (Thọ Lập), Mỹ Thượng (Xuân Hòa). Hoạt động của tổ chức Thanh niên và Tân Việt chủ yếu là vận động nhân dân học chữ Quốc ngữ, chống áp bức bóc lột, bài trừ mê tín dị đoan và tuyên truyền tinh thần yêu nước.

Trong vòng 3 năm từ năm 1926 đến đầu năm 1929, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân nói riêng và cả tỉnh nói chung phát triển sâu rộng, số hội viên, đảng viên của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt ngày một đông.

Đến giữa năm 1929, mặc dù đảng Tân Việt bị địch khủng bố, các đồng chí cán bộ chủ chốt của đảng như: Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ... bị địch bắt, nhưng phong trào cách mạng của hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt vẫn tiếp tục phát triển.

II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI DÂN SINH DÂN CHỦ CỦA NHÂN DÂN XÃ NAM GIANG (1936 - 1939)

Vào đầu năm 1930, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh, vai trò lãnh đạo của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và Tân Việt cách mạng đảng gặp nhiều bất cập và hạn chế. Quần chúng cách mạng trong tỉnh đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng triệt để để lãnh đạo cách mạng. Đó là tổ chức Cộng sản, bộ tham mưu đội quân tiên phong của giai cấp vô sản.

Ngày 03 tháng 02 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức Cộng sản trong nước, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chỉ đạo.

Ngày 22 tháng 7 năm 1930, Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Thọ Xuân được thành lập tại làng Yên Trường (nay thuộc xã Thọ Lập) gồm 7 đảng viên, do đồng chí Lê Văn Sỹ làm Bí thư Chi bộ([5]). Từ đây phong trào cách mạng Thọ Xuân trực tiếp có Đảng lãnh đạo.

Ngày 29 tháng 7 năm 1930, một sự kiện lịch sử trọng đại của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã diễn ra tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ, làng Yên Trường, đó là Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Hội nghị đã quyết định nhiều chủ trương công tác có ý nghĩa mở đầu của Đảng bộ và phong trào cách mạng trong tỉnh([6]):

Một là: Đẩy mạnh công tác tư tưởng, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê nin, chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng, tích cực phát triển đảng viên, xây dựng mở rộng cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ.

Hai là: Thành lập cơ quan in tài liệu của Tỉnh ủy và xuất bản tờ báo “Tiến lên” cơ quan ngôn luận đầu tiên của Đảng bộ tỉnh.

Ba là: Đoàn kết, xây dựng, tổ chức, chỉ đạo quần chúng cần lao đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống chế độ thực dân, phong kiến.

Bốn là: Bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí Lê Thế Long, Lê Văn Sỹ và Vương Xuân Cát; đồng chí Lê Thế Long được bầu làm Bí thư. Đồng chí Lê Văn Sỹ, Bí thư Chi bộ Thọ Xuân vinh dự được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Nhà đồng chí Lê Văn Sỹ được chọn đặt cơ quan ấn loát của Tỉnh ủy.

Tính đến cuối tháng 8 năm 1930, huyện Thọ Xuân đã có 3 chi bộ đảng, chia làm 8 tổ đảng, trong đó có chi bộ ghép Neo - Quần Kênh gồm 11 đảng viên (Neo 7 đảng viên, Quần Kênh 4 đảng viên). Tuy Đảng bộ tỉnh và các chi bộ ở Thọ Xuân mới được thành lập nhưng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được nhiều thắng lợi, như cuộc đấu tranh đòi chia lại công điền, công thổ ở Yên Trường, cuộc đấu tranh không đi đắp đường vào Phúc Địa (Quảng Phú) của nhân dân xã Chỉ Tín (Xuân Tín); tổ chức nông hội đỏ không ngừng phát triển, mở rộng cơ sở Đảng.

Do ảnh hưởng của các chi bộ Cộng sản, quần chúng yêu nước và các đảng viên, hội viên của Tân Việt và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tìm cách liên kết với nhau xây dựng và củng cố cơ sở cách mạng, xây dựng được nhiều nhân tố mới. Một số hội viên, đảng viên của Tân Việt cách mạng đảng chuyển hóa thành đảng viên Cộng sản.

Do nhiều yếu tố khách quan, phong trào và các tổ chức cách mạng chưa về đến các làng Phú Gia, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phong Lạc, Cao Phong, Kim Bảng (Nam Giang). Dưới ách cai trị và bóc lột hà khắc của chính quyền thực dân phong kiến, đời sống nhân dân ngày một bần cùng hóa. Tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc ngày càng sâu sắc, nó như ngọn lửa hồng ngày đêm âm ỉ, chỉ đợi ngọn gió lành là bùng lên, và ngọn lửa yêu nước ấy ở Nam Giang đã bùng lên, đó là cuộc cải lương hương thôn, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939).

Cuối năm 1930, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân nói riêng và toàn tỉnh nói chung đang trên đà phát triển và mở rộng. Chính quyền thực dân phong kiến phát hiện được hành tung của các chi bộ Cộng sản ở Thọ Xuân và trong tỉnh. Địch tập trung lực lượng mật thám, binh lính khủng bố trắng. Hầu hết cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt của Đảng và một số cán bộ cách mạng quần chúng bị địch bắt, tra tấn, tù đày.

Về danh nghĩa, Đảng bộ Cộng sản Thanh Hóa đã tan rã, nhưng cương lĩnh, đường lối của Đảng vẫn còn nguyên trong con tim khối óc nhân dân trong tỉnh. Người trước bị bắt, người sau đứng lên dân cao ngọn cờ của Đảng.

Ngày 01 tháng 9 năm 1931, thực hiện chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí Ngô Đức Mậu đã triệu tập các đảng viên trong tỉnh chưa bị địch bắt tổ chức hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa tại làng Hồ Thượng (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Tĩnh Gia). Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ người Thọ Xuân được bầu vào Ban Chấp hành.

Cuối tháng 4 năm 1931, Tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức hội nghị mở rộng tại phía nam Phà Ghép (Tĩnh Gia), bàn biện pháp đấu tranh hưởng ứng cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Hà Duyên Đạt người Thọ Xuân được bầu vào Tỉnh ủy viên chính thức.

Sau hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, các đồng chí cách mạng đã tổ chức treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao khổ trong tỉnh hưởng ứng cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Vận động, tổ chức cho nhân dân, công nhân đấu tranh chống áp bức bóc lột, giành quyền lợi của mình và tiến lên mít tinh, biểu tình ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Nguyễn Xuân Thúy, Nguyễn Văn Hồ, Hà Duyên Đạt, truyền đơn kêu gọi nhân dân ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh được rải ở đồn điền Vạn Lại, phố Bái Thượng và phủ lỵ Thọ Xuân. Công nhân, nhân dân truyền tay nhau đọc tài liệu của Cộng sản. Cũng trong ngày 01 tháng 5 năm 1931, cờ đỏ búa liềm được treo ở Nông Cống, nhà ga Thanh Hóa, huyện đường Vĩnh Lộc. Truyền đơn cũng được rải ở các nơi như Tĩnh Gia, Quảng Xương, thị xã Thanh Hóa, Nhà máy Diêm Hàm Rồng, Đông Sơn, Yên Định, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc... đã tạo ra dư luận rộng rãi trong tỉnh, ảnh hưởng sâu rộng tới quần chúng nhân dân.

Giữa lúc phong trào cách mạng ở Thanh Hóa đang có chiều hướng phát triển mạnh mẽ thì chính quyền thực dân phong kiến đã phát hiện ra đầu mối, địch tập trung mật thám và binh lính truy lùng các đảng viên, cán bộ trong Đảng bộ. Toàn bộ ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và nhiều quần chúng cách mạng bị địch bắt, cầm tù, tra tấn dã man.

Trong hai năm 1935 - 1936, Thanh Hóa được mùa, kinh tế có khá lên đôi chút, nhưng dưới sự cai trị của chính quyền đế quốc phong kiến, sưu cao thuế nặng, đời sống nhân dân Nam Giang vẫn vô cùng khó khăn. Bên cạnh nghề chính là nông nghiệp, nhân dân vẫn phải làm thêm các nghề phụ để mưu sinh như nghề mây tre đan, làm hàng sáo, lên rừng hái củi, làm nghề sơn tràng hoặc buôn bán nhỏ... Người dân một nắng hai sương đầu tắt mặt tối mà cơm vẫn không đủ no, áo vẫn không đủ ấm.

Tháng 4 năm 1936, tại nước Pháp, mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và lên nắm quyền. Sự kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị các nước Đông Dương và có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Bị sức ép chính trị của thế giới và sự đấu tranh kiên quyết của nhân dân cả nước, chính quyền thực dân Pháp buộc phải ân xá cho các chính trị phạm. Các chiến sĩ cách mạng ra khỏi nhà tù đế quốc trở về quê hương xây dựng phong trào, lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Lúc này mọi hoạt động cách mạng trên địa bàn phủ Thọ Xuân và cả tỉnh Thanh Hóa là hoạt động công khai và bán công khai.

Đầu năm 1936, được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng tổng Bất Náo, Hội Tương tế ái hữu làng Cao Phong được thành lập gồm các ông: Phạm Duy Dạng, Phạm Duy Đức, Phạm Hữu Chước, Lê Đình Toát, Phạm Duy Tụ, Lê Văn Đang([7]). Hoạt động của hội là giúp đỡ người nghèo, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn hoạn nạn, vận động nhân dân bỏ các hủ tục lạc hậu trong cưới xin, ma chay, nạn mê tín dị đoan, mở lớp dạy chữ Quốc ngữ. Từ 6 hội viên nòng cốt ban đầu, sau này làng Cao Phong có thêm nhiều người tham gia Hội Tương tế ái hữu.

Cũng vào đầu năm 1936, do được giác ngộ đọc sách báo “Tiếng dân”, “Tin tức” và ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp, nhiều làng ở Thọ Xuân có các tổ chức cách mạng, được sự tuyên truyền giác ngộ của các đồng chí cán bộ tổng Kiên Thạch, Bất Náo, cuối năm 1936, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Như được thành lập gồm các ông: Phùng Xuân Hênh, Lê Sĩ Nghiêm, Lê Sĩ Quới, Lê Viết Điềm, Lê Nhật Nghiêm... Hội đã lôi cuốn được rất nhiều người tham gia, hoạt động của hội là giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp đỡ nhau lúc ốm đau hoạn nạn, giúp nhau sản xuất... Hội bàn với các vị cao niên, chức sắc trong làng, bỏ lệ tế lễ xôi thịt, thay bằng oản xôi, bánh trái trong các ngày lễ kỵ, xóa bỏ hủ tục lạc hậu như: làm chay, bói toán, tổ chức các lớp học dạy chữ Quốc ngữ.

Vào giữa năm 1936, được sự tuyên truyền giúp đỡ của các đồng chí cán bộ tổng Bất Náo, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Trạch Thượng ra đời. Hội giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng họ, phường, bài trừ các hủ tục lạc hậu, chống mê tín dị đoan, vận động nhân dân học chữ Quốc ngữ. Thông qua các hoạt động trên để tuyên truyền đường lối cách mạng và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Cuối năm 1936, mặc dù chưa liên lạc được với Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung kỳ nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ đạo của Đảng in trên các báo công khai, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã tổ chức hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Yên Lộ (xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa) để bàn chủ trương, giải pháp tổ chức đấu tranh công khai và bán công khai, chống chính quyền thực dân phong kiến, đòi dân sinh, dân chủ.

Tính đến cuối năm 1936, Hội Tương tế ái hữu được thành lập khắp các làng trong huyện Thọ Xuân([8]) như: Long Linh Nội, Long Linh Ngoại (Thọ Trường), Canh Hoạch (Xuân Lai), Phong Cốc, Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung (Xuân Minh), Phúc Bồi (Thọ Lập), Quần Kênh (Xuân Giang), Nam Thượng (Tây Hồ), Thượng Vôi (Xuân Hòa), Mỹ Lý (Bắc Lương) và 3 làng của xã Nam Giang.

Dưới sự lãnh đạo của các chiến sĩ Cộng sản, Hội Tương tế ái hữu đã thực hiện xuất sắc vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân giúp đỡ, tương trợ nhau trong lao động sản xuất và đời sống, tổ chức đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, chống áp bức bóc lột, đưa phong trào cách mạng 1936 - 1939 trong huyện từ thấp lên cao, từ quy mô làng xã lan tỏa cả tổng, cả huyện; từ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế tiến tới đấu tranh chính trị; từ phong trào nhỏ lẻ tiến lên cao trào rộng khắp.

Do điều kiện địa lý gần trung tâm, bị địch quản lý gắt gao nên các làng Phúc Trạch Hạ, Kim Bảng, Phú Gia, hội Tương tế ái hữu được thành lập muộn hơn. Đầu năm 1938, hội Tương tế ái hữu làng Phong Lạc được thành lập, do ông Lê Công Thúy làm Tổ trưởng. Hoạt động của hội chủ yếu là tập hợp lực lượng đấu tranh chống địa chủ, cường hào trả công cấy, gặt rẻ mạt, giúp nhau trong sản xuất và trong sinh hoạt đời sống hàng ngày.

Mở đầu cho phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới bùng nổ, năm 1937 là cuộc vận động đón Gô-đa, đưa bản thỉnh nguyện lên Chính phủ Pháp của nhân dân phủ Thọ Xuân. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các chiến sĩ Cộng sản Thọ Xuân đã chỉ đạo Hội Tương tế ái hữu các làng ký vào đơn thỉnh nguyện. Tiếp theo là cuộc đấu tranh của phụ nữ các làng, xã Xuân Minh chống địa chủ, cường hào trả công cấy, gặt rẻ mạt; cuộc đấu tranh hạ uy thế Lý trưởng do các hội viên Tương tế ái hữu làm nòng cốt. Cuộc đấu tranh chia lại công điền, công thổ do Hội Tương tế ái hữu làm nòng cốt như: Phúc Thượng (Xuân Hòa), Yên Lược (Thọ Minh). Tháng 10 năm 1937, Tri phủ Thọ Xuân Khiếu Hữu Kiều bắt nhân dân các làng quanh làng Bàn Thạch vào vét âu thuyền Bàn Thạch nhưng lại không trả tiền công. Hội Tương tế ái hữu làng Quần Kênh cùng Hội Tương tế các làng tổ chức cho nhân dân lên phủ đường đấu tranh đòi tiền công. Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân, Tri phủ Thọ Xuân buộc phải trả tiền công cho người lao động.

Hội Tương tế ái hữu Phúc Bồi (Thọ Lập) đã vận động quần chúng nhân dân trong làng đấu tranh với gia đình địa chủ Nguyễn Thị Dậu không cho chôn người chết trong vườn và buộc gia đình bà Dậu phải trả lại 30 mẫu ruộng và 30 con trâu, bò mà gia đình bà Dậu đã chiếm đoạt của nông dân.

Đến cuối năm 1938, các cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị - xã hội liên tiếp bùng nổ trên địa bàn phủ Thọ Xuân. Tại Trung Vực (Xuân Thành), đồng chí Trịnh Ngọc Phớc và Hội Tương tế ái hữu đã tổ chức cho quần chúng đấu tranh chống phu phen tạp dịch, không đi đắp đường vào ấp của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều.

Dưới sự chỉ đạo của cán bộ cách mạng tổng Bất Náo và các chiến sĩ Cộng sản phủ Thọ Xuân, Hội Tương tế ái hữu làng Cao Phong cùng Hội Tương tế ái hữu các làng Phong Lạc, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, làng Phú Gia, Kim Bảng vận động quần chúng nhân dân đấu tranh không đi đắp đường vào phủ Quan Thành của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều ở Nông Cống và cùng nhau làm đơn kiện Tri phủ Khiếu Hữu Kiều bóc lột công lao động của nhân dân, làm ảnh hưởng đến chi giang 10. Đơn kiện lên chính quyền thực dân phong kiến, triều đình nhà Nguyễn cách chức Tri phủ Khiếu Hữu Kiều, dừng ngay việc đắp đường và điều Nguyễn Phượng Lân về làm Tri phủ Thọ Xuân.

Trước đó, vào giữa năm 1938, đồng chí Trịnh Hữu Thường được Tỉnh ủy cử về Thọ Xuân cùng với đồng chí Hoàng Sỹ Oánh tổ chức hội nghị thành lập Ủy ban vận động cách mạng phủ Thọ Xuân. Ban Chỉ đạo gồm 5 người: Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sỹ Oánh, Nguyễn Mậu Sung, Lê Khánh Việp, Nguyễn Văn Anh. Sau một thời gian hoạt động, các hội Tương tế ái hữu được củng cố và phát triển. Nhiều làng, Hội Tương tế ái hữu vận động đưa người của cách mạng vào nắm giữ những chức vụ chủ chốt như: Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần...

Đầu tháng 7 năm 1939, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sỹ Oánh đã tổ chức hội nghị cơ sở Đảng và cách mạng phủ Thọ Xuân bàn biện pháp đưa phong trào đấu tranh trong phủ lên quy mô mới với hình thức công khai, hợp pháp. Hội nghị quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở chợ Neo nhân kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp (14/7/1939). Thực hiện chủ trương của trên, Hội Tương tế ái hữu các làng: Phú Gia, Phúc Như, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc (Nam Giang) cử hội viên tham dự mít tinh và làm công tác bảo vệ đề phòng địch bao vây khủng bố.

Sáng ngày 14 tháng 7 năm 1939, các cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng phủ Thọ Xuân đã huy động hàng ngàn quần chúng, hội viên Tương tế ái hữu giả làm người đi chợ về chợ Neo dự cuộc mít tinh. Đồng chí Trịnh Hữu Thường đọc diễn thuyết phản đối bọn phản động thuộc địa, phản bội tinh thần cách mạng Tư sản Pháp, phản đối việc khủng bố Mặt trận dân chủ Đông Dương của nhà cầm quyền, lên án chủ nghĩa phát xít, kêu gọi toàn dân đoàn kết đấu tranh đòi tự do, cơm áo, dân chủ, hòa bình... Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc tuần hành biểu dương lực lượng. Từ chợ Neo, cuộc mít tinh chia thành nhiều đoàn diễu hành về các địa phương trong phủ, vừa đi vưa hô to khẩu hiệu: “Hoan nghênh cách mạng tư sản Pháp”; “Kiên quyết phòng thủ Đông Dương”; “Đả đảo phát phát xít Đức - Ý - Nhật”; “Tự do, cơm áo, hòa bình muôn năm”... Cuộc mít tinh tuần hành thị uy đã diễn ra đúng kế hoạch, trên quy mô cả phủ Thọ Xuân, bọn thống trị không dám đàn áp.

Gần một thập kỷ Đảng ta ra đời, đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng. Mặc dù bị địch khủng bố nhiều lần, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, tù đày, Chi bộ Đảng Thọ Xuân phải thành lập đi, thành lập lại nhiều lần, qua thử thách số lượng đảng viên cơ sở Đảng, tổ chức cách mạng ngày một phát triển và mở rộng.

Đối với 7 làng cổ thuộc xã Nam Giang, ngày nay được coi là kín cổng cao rào, thường bị chính quyền đế quốc phong kiến kiểm soát gắt gao, mật thám và tay sai luôn rình mò, sẵn sàng đàn áp cách mạng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, được các chiến sĩ cộng sản, cán bộ cách mạng của phủ Thọ Xuân, tổng Bất Náo tuyên truyền vận động, từ đầu năm 1936, Hội Tương tế ái hữu đã được thành lập ở các làng thuộc Nam Giang. Và chỉ trong vòng hai năm (1936 - 1938), tất cả các làng ở Nam Giang đều có Hội Tương tế ái hữu. Năm 1936, Hội Tương tế ái hữu làng Phúc Như đang hoạt động mạnh mẽ thì mật thám và lính tráng ập về làng lục soát, chúng tìm thấy tờ báo “Tiếng dân” trong nhà ông Lê Sỹ Phước. Lập tức ông Lê Sỹ Phước bị địch bắt giam. Từ đây địch tăng cường dò la khám xét. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với phương thức hoạt động công khai, bán công khai, hợp pháp và bán hợp pháp, phong trào cách mạng ở Nam Giang ngày càng thu hút đông đảo quần chúng tham gia, đưa cuộc đấu tranh cách mạng từ thấp lên cao, từ những tổ chức đơn lẻ trở thành cao trào rộng khắp. Từ đấu tranh cải lương như đoàn kết giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp nhau sản xuất, bỏ các hủ tục trong cưới xin, ma chay, chống mê tín dị đoan, giảm cỗ bàn trong hội hè tế lễ, đến đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, không đi đắp đường vào ấp của Tri phủ Khiếu Hữu Kiều và kiện Tri phủ Kiều mất chức, ký vào bản thỉnh nguyện đòi dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống sưu cao thuế nặng, tiến tới đấu tranh chính trị như mít tinh và tuần hành thị uy ở chợ Neo. Thông qua đấu tranh cách mạng, quần chúng nhân dân Nam Giang đã được học tập, rèn luyện nâng cao dân trí và trình độ giác ngộ cách mạng. Những thắng lợi mà nhân dân Nam Giang giành được trong thời kỳ đấu tranh cách mạng 1936 - 1939 là bài học lịch sử để nhân dân Nam Giang tiến vào giai đoạn mới đầy khó khăn gian khổ, quyết liệt hơn và tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

III. PHONG TRÀO PHẢN ĐẾ CỨU QUỐC, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945)

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Ở nước ta, chính quyền đế quốc phong kiến thẳng tay đàn áp cách mạng, tấn công vào Đảng ta và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được trong phong trào đấu tranh 1936 - 1939.

Trước tình hình đó, ngày 29 tháng 9 năm 1939, Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị cho các cấp ủy Đảng chuyển vào hoạt động bí mật và chuyển hướng bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 11 năm 1939, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp đề ra chủ trương chuyển hướng quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang trực tiếp đấu tranh đánh đổ chính quyền đế quốc, tay sai.

Cuối năm 1939, đồng chí Trần Hoạt - Xứ ủy Bắc kỳ thoát ly vào Thanh Hóa hoạt động. Từ Phúc Bồi (Thọ Lập), Đầm (Xuân Thiên) về Kim Ốc (Xuân Hòa), Quần Kênh (Xuân Giang), Nam Thượng (Tây Hồ). Tháng 2 năm 1940, tại làng Kim Ốc (Xuân Hòa) đồng chí Trần Hoạt (Trần Bảo) chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm Trần Hoạt, Đặng Châu Tuệ, Hồ Sỹ Nhân. Cử đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.

Đầu năm 1940, đồng chí Lê Huy Toán (Thiệu Hóa) đã nối liên lạc với các chiến sỹ cộng sản các huyện Thiệu Hóa, Yên Định và Vĩnh Lộc, thành lập Tỉnh ủy lâm thời gồm: Lê Huy Toán, Bùi Văn Khúc và Trịnh Huy Lãn. Đồng chí Lê Huy Toán làm Bí thư.

Tháng 3 năm 1940, đồng chí Đào Duy Dếnh - Xứ ủy Trung kỳ ra Thanh Hóa hoạt động, nhận được nghị quyết Trung ương VI và nhiều tài liệu quan trọng, đồng thời thành lập Tỉnh ủy lâm thời ở khu vực thị xã Thanh Hóa và Đông Sơn gồm 3 đồng chí: Nguyễn Đức Nhuận, Lưu Cộng Hòa và Đỗ Đông Uyên. Đồng chí Nguyễn Đức Nhuận làm Bí thư.

Như vậy, vào đầu năm 1940, ở Thanh Hóa có tới 3 Tỉnh ủy lầm thời, song Thọ Xuân là nơi thành lập Tỉnh ủy lầm thời đầu tiên của tỉnh. Tháng 4 năm 1940, các đồng chí trong Ban cán sự Đảng Thọ Xuân đã nối liên lạc được với các đồng chí Lê Huy Toán (Thiệu Hóa), Trịnh Huy Lãn (Vĩnh Lộc), Lưu Văn Bân (Lưu Cộng Hòa) thị xã Thanh Hóa để thống nhất chủ trương lãnh đạo cách mạng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6.

Đầu năm 1940, bọn mật thám Pháp và chính quyền thực dân, phong kiến xếp phủ Thọ Xuân vào loại một chống đối chính quyền để thẳng tay đàn áp. Chúng thực hiện chính sách khủng bố và cướp bọc kéo dài ở Thọ Xuân và các huyện khác trong tỉnh. Đi đôi với việc cướp bóc khủng bố, chúng thực hiện chính sách mị dân, phá hoại khối đoàn kết trong nhân dân như: tăng phụ đảm chiến tranh từ 8% lên 13% và thực hiện chính sách thuế điền thổ “nhất tam quy nhị”, nghĩa là thuế đất loại một, loại ba bằng thuế đất loại hai, điều này có lợi cho địa chủ, những người có nhiều đất loại một. Trước sự cướp bóc khủng bố tàn bạo của kẻ thù, phong trào đấu tranh chống sưu cao thuế nặng đã trở thành cao trào. Các tổng Diên Hào, Kiên Thạch, Quảng Yên, Phú Hà, Thử Cốc đã có các đoàn thể phản đế cứu quốc và tự vệ cứu quốc.

Tháng 6 năm 1940, đồng chí Nguyễn Đức Cúc (Nguyễn Văn Linh) trên đường vào Nam công tác, bị mật thám Pháp theo dõi, đồng chí ghé vào Thanh Hóa, liên lạc được với đồng chí Trần Hoạt. Thời gian ở làng Kim Ốc (xã Xuân Hòa) đồng chí Nguyễn Đức Cúc đã biên tập tài liệu “Những điều cần biết của người Cộng sản” và giúp các đồng chí trong Ban cán sự hoàn chỉnh Điều lệ Hội phản đế cứu quốc, Điều lệ Tự vệ cứu quốc và ấn hành báo “Tự do”. Tất cả tài liệu này được chuyển xuống cơ sở các làng.

Tại Nam Giang vào thời điểm giữa năm 1940, được sự chỉ đạo của cán bộ cách mạng tổng Nam Dương, Bất Náo, tổ chức Tương tế ái hữu các làng Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ lần lượt chuyển sang Hội phản đế cứu quốc, hoạt động công khai, bán công khai, trong điều kiện bị địch kiểm soát gắt gao, nên việc thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ chức cứu quốc như Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão... còn hạn chế.

Vào giữa năm 1940, địch gia tăng khủng bố với thủ đoạn “chặt đầu phá ổ” cơ sở cách mạng ở Hoằng Hóa, Hậu Lộc và thị xã Thanh Hóa bị đánh phá. Các đồng chí trong Tỉnh ủy lâm thời lần lượt bị bắt.

Tháng 10 năm 1940, đồng chí Bùi San - Xứ ủy Trung kỳ ra Thanh Hóa công tác, nắm bắt tình hình ở Thanh Hóa do các chiến sỹ cộng sản cách mạng báo cáo. Cuối tháng 11 năm 1940, đồng chí Bùi San đã triệu tập hội nghị đại biểu cơ sở Đảng 4 huyện: Yên Định, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc tại làng Thuần Hậu (xã Xuân Minh) do đồng chí trực tiếp chỉ đạo. Hội nghị quán triệt nội dung tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (tháng 11/1939). Hội nghị thống nhất đưa ra 3 vấn đề cơ bản: Chuyển hướng mặt trận dân chủ sang các đoàn thể phản đế cứu quốc, tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân vào mặt trận chống phát xít chiến tranh, đánh đổ chính quyền đế quốc phong kiến giành độc lập dân tộc. Xuất bản tờ báo “Tự do”, cơ quan tuyên truyền của mặt trận phản đế cứu quốc. Hội nghị cử Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí: Trần Hoạt, Lê Huy Toán và Đặng Châu Tuệ. Đồng chí Trần Hoạt làm Bí thư.

Căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, Ban cán sự Hội phản đế cứu quốc các tổng Nam Dương, Bất Náo, Thượng Cốc chỉ đạo các làng ở Nam Giang([9]) tiếp tục phát triển mở rộng Hội phản đế cứu quốc, dưới danh nghĩa họ, phường, giúp nhau làm nhà, cưới vợ, giúp nhau sản xuất, học chữ Quốc ngữ, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thông qua các hoạt động này tuyên truyền đường lối cách mạng và đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, bắt phu bắt lính bằng phương pháp công khai như: xin miễn thuế, giảm thuế, khất thuế và bằng nhiều hình thức khác nhau chống bắt phu bắt lính.

Tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. Từ đây nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Nam Giang nói riêng phải chịu “một cổ hai tròng” cả Pháp và Nhật áp bức bóc lột, đời sống nhân dân ngày một khổ cực hơn.

Cuối năm 1940, đầu năm 1941, có sự lãnh đạo thống nhất của Tỉnh ủy, phong trào cách mạng trong tỉnh chuyển biến tích cực.

Tháng 2 năm 1941, Hội nghị đại biểu Đảng bộ toàn tỉnh họp tại làng Phong Cốc (Xuân Minh). Hội nghị chủ trương lấy hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hóa làm trung tâm xuất phát cho phong trào đấu tranh hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ.

Sau hội nghị Phong Cốc, các đồng chí cán bộ Cộng sản Thọ Xuân Hoàng Sỹ Oánh, Hồ Sỹ Nhân, Nguyễn Mậu Sung, Nguyễn Mậu Kiện... và các làng trong huyện truyền đạt chủ trương và xây dựng các đội tự vệ du kích. Đến tháng 3 năm 1941, các đoàn thể cứu quốc và tự vệ đã phát triển ở các làng như: Long Linh Ngoại, Long Linh Nội, Phong Cốc, Xá Lê, Ngọc Trung, Thuần Hậu, Canh Hoạch. Các làng phía nam sông Chu như Phú Thượng, Kim Ốc, Kim Phú, Thượng Vôi, An Lạc, Phong Bái, Nam Thượng, Quần Kênh.

Cuối tháng 6 năm 1941, tại làng Xá Lê (Xuân Minh), 60 đại biểu trong toàn tỉnh về dự Đại hội phản đế cứu quốc, thống nhất chương trình hành động và bầu ra ban chấp hành Mặt trận phản đế cứu quốc tỉnh. Đồng chí Trịnh Ngọc Phớc được phân công làm Bí thư Phản đế cứu quốc. Sau hội nghị thành lập Mặt trận phản đế, phong trào cách mạng phát triển theo chiều hướng tích cực, các tổ chức phản đế cứu quốc ngày càng được củng cố và mở rộng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Tự vệ cứu quốc... Các tổ chức cứu quốc được phát triển ở các làng tạo thành lực lượng cách mạng quần chúng đông đảo.

Tháng 7 năm 1941, Tỉnh ủy quyết định thành lập chiến khu Ngọc Trạo. Ban lãnh đạo chiến khu gồm đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trịnh Huy Lãm và Đặng Văn Hỷ. Từ đây Thọ Xuân và các huyện trong tỉnh có nhiệm vụ tuyển lực lượng ưu tú đưa lên chiến khu, chi viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc men cho các chiến sỹ, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân dưới mọi hình thức đấu tranh ủng hộ khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ.

Nhằm đối phó và đàn áp phong trào phản đế cứu quốc đang phát triển trong tỉnh. Ngày 7 tháng 10 năm 1941, chính quyền thực dân phong kiến ra lệnh thiết quân luật vùng Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa. Ngày 8 tháng 10 năm 1941, địch huy động lực lượng mật thám, binh lính tấn công vào Đa Ngọc, nơi tập kết của 100 tự vệ của 3 huyện Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa trước khi lên chiến khu Ngọc Trạo. Với vũ khí thô sơ, các chiến sĩ tự vệ đã chiến đấu kiên cường. Đồng chí trung đội trưởng Nguyễn Đức Tẻo anh dũng hy sinh. Tự vệ rút về cơ sở nhờ vào sự che chở của nhân dân.

Ngày 19 tháng 10 năm 1941, địch tập trung lực lượng mật thám, binh lính bao vây chiến khu Ngọc Trạo. Sau khi chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, thực dân Pháp và chính quyền tay sai tập trung lực lượng khủng bố trắng các vùng Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, nặng nề nhất là các làng nay thuộc xã Xuân Minh và các vùng lân cận. Chúng chặt cây cối, bờ rào, cướp lúa gạo, lợn gà của nhân dân. Đối với các gia đình có người hoạt động cách mạng, chúng dỡ nhà làm đồn bốt, tuyên bố lệnh giới nghiêm. Hàng trăm cán bộ cộng sản, quần chúng cách mạng ở Thọ Xuân bị địch bắt, tù đày, tra tấn.

Ngày 20 tháng 11 năm 1941, địch bao vây đồn điền Mã Hùm (khu vực Sao Vàng ngày nay), bắt 56 công nhân lao động tập trung tra xét. Công nhân lao động tập trung bao vây đấu tranh buộc địch phải trả tự do cho những người bị bắt. Hàng chục làng xã bị tàn phá. Trước sự đàn áp khủng bố dã man của kẻ thù, phong trào cách mạng phủ Thọ Xuân cũng như các phủ huyện khác trong tỉnh tạm lắng xuống.

Tháng 7 năm 1942, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt thay mặt Tỉnh ủy lâm thời về Thọ Xuân triệu tập hội nghị cán bộ cốt cán của mặt trận phản đế tại Vĩnh Nghi (xã Hạnh Phúc), hướng dẫn đề cương chuyển Mặt trận phản đế sang Hội ái quốc (Hội yêu nước).

Năm 1942, chính quyền thực dân phong kiến ra sức vơ vét tài nguyên, thóc gạo, nhân lực cung phụng cho cuộc chiến tranh của phát xít Nhật. Vừa cướp bóc bằng sưu cao thuế nặng, vừa mua bán mang tính cưỡng đoạt, tổ chức mua “thóc tạ”, “bông cân”. Chúng bắt mỗi khẩu vùng có nông giang phải bán cho chúng 2kg thóc. Nguy hiểm hơn, chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa, phá hoa màu để trồng đay, trồng lạc cho phát xít Nhật thực hiện chiến tranh ở Đông Dương. Và cùng với vỡ đê, mất mùa năm 1944, sự vơ vét, bóc lột của đế quốc, phát xít đã dẫn đến nạn đói đầu năm 1945 làm cả nước có trên hai triệu người chết đói.

Do thời gian phát triển Hội ái quốc ít và nhiều lý do khách quan khác, các tổ chức phản đế cứu quốc các làng Nam Giang chưa kịp chuyển đổi, thì đầu năm 1943, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt lại về Thọ Xuân, triệu tập Hội nghị Ái quốc các tổng trong huyện tại chùa Yên Thọ (Xuân Minh), truyền đạt Nghị quyết trung ương VIII (tháng 5/1941) và chủ trương của Tỉnh ủy chuyển Hội ái quốc sang Mặt trận Việt Minh. Các đội tự vệ cứu quốc, Hội ái quốc các tổng, làng chuyển thành Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức cứu quốc từ huyện xuống đến tổng, làng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội... đều là thành viên của Mặt trận Việt Minh.

Vào khoảng tháng 3 năm 1943, được sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh tổng Bất Náo, Mặt trận Việt Minh làng Phúc Trạch Thượng được thành lập, củng cố lại các tổ chức đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão, Nông dân... hoạt động theo cương lĩnh điều lệ của Mặt trận Việt Minh. Cùng thời gian này, Mặt trận Việt Minh làng Phúc Trạch Hạ cũng được thành. Các đoàn thể cứu quốc trong làng được củng cố, phát triển thêm thành viên. Cũng như Phúc Trạch Thượng, đội tự vệ cứu quốc làng Phúc Trạch Hạ được thành lập. Đây là hai đơn vị vũ trang cách mạng đầu tiên của xã Nam Giang.

Vào vụ năm 1944, phát xít Nhật thúc ép thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai phải nộp cho Nhật 900 tấn gạo([10]). Thi hành mệnh lệnh của Nhật, Pháp và chính quyền tay sai tăng thuế điền thổ vùng có nông giang lên 2,1kg; vùng không có nông giang tăng 1,4kg; đồng thời ra lệnh cho tổng lý phải thu mua bình quân mỗi mẫu 120 kg thóc với giá rẻ mạt([11]).

Thủ đoạn cướp bóc của Nhật - Pháp càng đè nặng lên đầu, lên cổ nhân dân. Thực hiện lời kêu gọi của Tỉnh bộ Việt Minh “Nạp lúa cho giặc là cấp lương thực cho quân giặc khỏe tay bắn giết dân ta... Thà bán rẻ cho nhân dân còn hơn bán đắt cho giặc... Giữ lấy lúa mà ăn”. Nhân dân các làng, tổng đồng loạt không nộp thuế, không bán thóc cho địch. Đa số lý trưởng các làng đã ngả về phía nông dân, cùng tham gia đấu tranh. Một người hám lợi về các làng, các tổng mua lúa gạo bị tự vệ và nhân dân xua đuổi.

Mùa mưa lũ năm 1944, nhiều đoạn đê sông Chu bị vỡ. Dân phu nhiều làng, tổng lên công trường đắp đê đã đoàn kết đấu tranh chống đánh đập, bớt xén khẩu phần lương thực hàng ngày. Khởi đầu là phu đắp đê làng Yên Lược. Tiếp đến là cuộc đấu tranh của nhân dân tổng Nam Dương và tổng Bất Náo, trong đó có nhân dân các làng Nam Giang đã đoàn kết đấu tranh, buộc bọn cai đội trên công trường đắp đê sông Chu phải trả lại số gạo mà bọn chúng đã bớt xén.

Đầu năm 1945, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân Thọ Xuân chống thu thuế, thu thóc, thu bông, bắt phu, bắt lính đã lên đến cao trào và thu được nhiều thắng lợi. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạng. Các tổ chức đoàn thể phát triển sâu rộng. Để thống nhất sự chỉ đạo, đồng chí Trịnh Ngọc Điệt về Thọ Xuân cùng Ban cán sự Việt Minh huyện chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh các tổng, tập hợp sức mạnh quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Bước sang năm 1945, do vỡ đê mất mùa của vụ mười năm 1944 và sự vơ vét cướp bóc thóc gạo của Nhật - Pháp, nạn đói đã diễn ra trên đất Nam Giang. Các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phong Lạc, Phúc Như, Phú Gia, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ nhiều gia đình đã hết lương thực. Trên địa bàn huyện Thọ Xuân nhiều làng đã có người chết đói.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, cơ sở Đảng huyện Thọ Xuân tổ chức cho nhân dân đấu tranh chống âm mưu cướp bóc, vơ vét thóc gạo của Nhật - Pháp và ra chủ trương chống đói, cứu đói.

Ngày 5 tháng 3 năm 1945, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa ra chỉ thị “Đòi ăn”. Dưới sự chỉ đại của Mặt trận Việt Minh huyện, tổng, Việt Minh các làng ở Nam Giang kêu gọi nhân dân tương thân, tương trợ với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”; vận động các gia đình còn thóc gạo giúp đỡ những gia đình nghèo hết ăn; cứu đói cho đồng bào Liên khu Ba tản cư vào vùng tự do xin cứu tế, phát chẩn tập trung ở chợ Neo(1). Thông qua phong trào cứu đói, Mặt trận Việt Minh các làng ở Nam Giang đã tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, lý hương đi theo cách mạng.

Trên địa bàn Thọ Xuân, các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy của nhân dân và lực lượng tự vệ đấu tranh lên án tội ác của Nhật - Pháp, tổ chức cho nhân dân làm đơn gặp Tri phủ đòi cứu tế. Việt Minh đến các nhà giàu còn nhiều thóc gạo vận động cho các gia đình nghèo vay thóc gạo.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Mũi nhọn đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta lúc này chĩa thẳng vào phát xít Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh phủ Thọ Xuân tổ chức phong trào kháng Nhật cứu nước. Các cuộc tuyên truyền công khai chống Nhật và đấu tranh vạch trần chiêu bài giả hiệu độc lập của bọn phản động việt gian Đại Việt.

Cũng từ đây, Mặt trận Việt Minh các làng ở Nam Giang hoạt động nửa công khai và công khai. Cương lĩnh cứu nước của Mặt trận cũng được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Tự vệ du kích tích cực luyện tập, mua sắm, rèn đúc vũ khí.

Tháng 6 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trịnh Ngọc Điệt, huyện Thọ Xuân tiến hành xây dựng căn cứ khởi nghĩa là tổng Thử Cốc. Lực lượng tự vệ ở đây rất mạnh. Chỉ 3 làng (nay thuộc xã Thọ Trường) lực lượng tự vệ đã lên đến 1.200 người với đầy đủ vũ khí, dao, kiếm, giáo mác. Tự vệ làng Căng Hạ (Thọ Trường) còn mua được 2 khẩu súng Nhật.

Tháng 7 năm 1945, vùng căn cứ khởi nghĩa của Thọ Xuân đã mở rộng đến 3 tổng Nam Dương, Bất Náo, Kiên Thạch. Lực lượng tự vệ của các tổng thường xuyên tổ chức các cuộc tuần hành thị uy, tuyên truyền cương lĩnh chống Nhật cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Mở đầu là cuộc mít tinh của tự vệ 3 tổng gồm 500 tự vệ tại làng Phong Bái (Thọ Nguyên) được chuyển thành cuộc tuần hành thị uy đi qua 3 tổng Nam Dương, Kiên Thạch, Bất Náo. Cuộc tuần hành đi qua phủ lỵ Thọ Xuân. Huyện trưởng Phan Quốc Lương và bộ máy chính quyền tổng, lý không dám ngăn cản. Như vậy là đến cuối tháng 7 năm 1945, Việt Minh và lực lượng tự vệ đã làm chủ được 4 tổng: Thử Cốc, Nam Dương, Kiên Thạch và Bất Náo. Ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa đang họp tại làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hóa) bàn biện pháp xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 15 tháng 8, nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Tỉnh ủy kịp thời quyết định khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn toàn tỉnh và hướng dẫn thành lập Ủy ban khởi nghĩa, Ủy ban nhân dân lâm thời các huyện. Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Hoàng Sỹ Oánh làm Trưởng ban khởi nghĩa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa và Ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân được thành lập gồm các đồng chí: Hoàng Sỹ Oánh, Hoàng Văn Cài, Hoàng Văn Ngữ, Hồ Sỹ Nhân, Nguyễn Mậu Sung, Nguyễn Mậu Kiện, Lê Xuân Tại. Ủy ban khởi nghĩa huyện chỉ định Trưởng ban khởi nghĩa các tổng. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung và Hồ Sỹ Nhân làm Trưởng ban khởi nghĩa hai tổng xung yếu quanh huyện lỵ.

Cuộc khởi nghĩa diễn ra vào hồi 0 giờ ngày 19 tháng 8 trên khắp địa bàn huyện. Lực lượng tự vệ và nhân dân đã áp đảo hoàn toàn chính quyền địch. Rạng sáng ngày 19 tháng 8, lực lượng tự vệ dưới sự chỉ huy của đồng chí Hoàng Sỹ Oánh, Hoàng Văn Cài, Nguyễn Mậu Kiện nhanh chóng bao vây phủ đường Thọ Xuân, tước vũ khí của lính gác và tiểu đội vũ trang, bắt huyện trưởng Phan Quốc Lương đầu hàng vô điều kiện, giao ấn tín cho cách mạng.

Sau khi chiếm được huyện lỵ, dưới sự chỉ huy của đồng chí Hoàng Sỹ Oánh và Hoàng Văn Cài, lực lượng khởi nghĩa lên Bái Thượng kết hợp với lực lượng tự vệ do đồng chí Hoàng Văn Ngữ chỉ huy đánh chiếm Sở bang tá và đồn bảo an.

Tại tổng Bất Náo, cũng như các tổng khác, đúng giờ khởi nghĩa, lực lượng tự vệ và nhân dân các làng dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh kéo đến nhà Cai tổng, Lý trưởng thu hồi đồng triện, giấy tờ sổ sách và tuyên bố giải tán chính quyền cũ. Cũng trong ngày 19 tháng 8, Ủy ban nhân dân lâm thời các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ được kịp thời thành lập.

Tính đến chiều ngày ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa trên địa bàn huyện Thọ Xuân đã thắng lợi trọn vẹn mà không có đổ máu hy sinh. Chính quyền cách mạng được thành lập từ huyện xuống đến làng.

Sáng ngày 20 tháng 8 năm 1945, lực lượng tự vệ và nhân dân trong huyện tiến về phủ lỵ Thọ Xuân mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Ủy ban nhân dân lâm thời huyện ra mắt quốc dân đồng bào. Đồng chí Hoàng Sỹ Oánh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời huyện đọc diễn văn chào mừng khởi ngĩa thành công, công bố danh sách thành viên Ủy ban nhân dân lâm thời huyện; kêu gọi nhân dân trong huyện đoàn kết bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm xây dựng chế độ mới.

Cuộc mít tinh kết thúc trong tiếng hoan hô vang dội của quần chúng nhân dân: “Ủng hộ chính quyền nhân dân”; “Việt Nam hoàn toàn độc lập”; “Việt Minh muôn năm”.


 

 

Chương III

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI

DIỆT GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, TIẾN TỚI

THÀNH LẬP XÃ NAM GIANG

CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN

CHỐNG THỰC DÂN PHÁP THẮNG LỢI

(1945 - 1954)

 

I. CHỐNG GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (8/1945 - 12/1946)

Nằm trong hoàn cảnh chung của cả tỉnh, cả nước, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân trong những ngày đầu mới thành lập đứng trước những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua.

Ngay sau khởi nghĩa thành công, chính quyền nhân dân lâm thời tiếp quản huyện đường với mấy gian nhà trống, mọi hoạt động của chính quyền cách mạng đều phải dựa vào các đoàn thể và sự đóng góp của nhân dân.

Bộ máy chính quyền từ huyện xuống cơ sở mới thành lập còn non yếu, bỡ ngỡ lúng túng trong tổ chức và quản lý xã hội. Đời sống nhân dân, nhất là nông dân vô cùng khó khăn. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra trầm trọng. Nạn đói đầu năm 1945 kéo dài, đe dọa hàng ngàn sinh mạng con người trong huyện. Hơn 95% người dân trong huyện mù chữ. Tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện... do chế độ cũ để lại nặng nề; dịch bệnh phát sinh nhiều trong huyện.

Trong khi đó, vào trung tuần tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh tràn vào miền Bắc nước ta âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, gây cho chính phủ và nhân dân ta muôn vàn khó khăn.

Ở miền Nam, núp sau quân đội Anh, quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách cai trị lên các nước Đông Dương một lần nữa.

Tại Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào chiếm những địa điểm trọng yếu ở thị xã Thanh Hóa, uy hiếp chính quền non trẻ, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng, chúng tung tiền mua vơ vét hàng hóa, làm cho nền kinh tế trong tỉnh vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chúng ép chính quyền cách mạnh đưa tên phản động Đỗ Văn giữ chức vụ quan trọng trọng chính quyền cấp tỉnh, chúng nuôi dưỡng lập kế hoạch và cung cấp vũ khí quân nhu cho nhóm phản động Quốc dân Đảng lập đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn). Các tổ chức phản động cũng ngóc đầu dậy, tích cực hoạt động ở các vùng tôn giáo, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, cách mạng, chuẩn bị lực lượng đón quân đội Pháp trở lại thống trị nước ta.

Trước ngày khởi nghĩa, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: quân Tưởng Giới Thạch sẽ kéo vào miền Bắc nước ta, lực lượng phản động quốc tế sẽ nao vây tấn công chính quyền cách mạng, bọn phản động sẽ tìm cách kết nối với bọn Quốc dân Đảng chống phá chính quyền.

Để giải quyết tình hình nói trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch ra phương hướng giải pháp bảo vệ và xây dựng chế độ mới, đối phó với các lực lượng phản động quốc tế đang âm mưu cô lập tấn công chính quyền cách mạng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp đầu tiên của Chính phủ và nói lên 6 điều cấp bách cần phải làm ngay:

Một là: phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo.

Hai là: phát động phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là: phát động tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là: thực hiện cần kiệm liêm chính, bài trừ thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là: bỏ ngay 3 thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

Sáu là: tuyên bố tự tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai việc quan trọng nhất là cứu đói ở miền Bắc và đánh giặc ở miền Nam. Đó là hai nhiệm vụ trước mắt nhưng cũng là hai nhiệm vụ chiến lược.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân kêu gọi nhân dân trong huyện tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ những gia đình còn đói.

Tại Nam Giang, dưới sự chỉ đạo của chính quyền nhân dân lâm thời và Mặt trận Việt Minh các làng, sự tuyên truyền vận động của các tổ chức đoàn thể cứu quốc, nhân dân các làng tích cực tăng gia sản xuất, tích cực khai hoang phục hóa, hàng chục mẫu ruộng bị bỏ hoang, cồn bãi được khai khẩn cấy lúa trồng màu, nhân dân các làng còn quyên góp được hàng chục đồng bạc, hàng trăm ki lô gam lương thực ủng hộ đồng bào trong tỉnh, ngoài tỉnh còn đói. Lực lượng vũ trang các làng được kiện toàn bổ sung, không ngừng luyện tập vũ trang, lập các trạm gác, tuần tra bảo vệ an ninh trật tự, bảo vệ chính quyền cách mạng. Làng xóm tiêu điều xơ xác sau nạn đói khủng khiếp giờ đây đã được hồi sinh. Mọi người dân đều tích cực xây dựng đời sống mới. Các phong trào cách mạng làm theo lời kêu gọi của Đảng, của Hồ Chủ tịch đã trở thành cao trào. Khắp nơi trong các làng ở Nam Giang đều có khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, “Quyết tâm diệt giặc dốt”. Trong các làng đều có nhiều lớp học xóa nạn mù chữ. Lớp học được mở ở nhiều nơi như: đình, chùa, nhà dân, vườn cây... Giáo viên là các thầy giáo, người có chữ tình nguyện dạy. Bảng viết là cánh cửa, nong, nia. Phấn viết là gạch non, than, đất sét. Phần lớn đều học vào buổi trưa, buổi tối. Nhiều giáo viên lăn lộn đóng góp cho phong trào như cụ Lê Huy Hớn,...

Việc chia lại công điền, công thổ ở các làng ít nhiều đã đem lại quyền lợi cho nhân dân, thúc đẩy phong trào tăng gia sản xuất. Đời sống mới đã đẩy lùi các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại như nạn cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, mê tín dị đoan...

Để đảm bảo cho sự nghiệp đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt thắng lợi, đầu tháng 10 năm 1945, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thanh Hóa, tại trụ sở Việt Minh huyện, hội nghị thành lập Đảng bộ huyện Thọ Xuân được tiến hành. Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm tình hình công tác sau ngày khởi nghĩa, đề ra những chủ trương công tác mới trong thực tế chống giặc đói, giặc dốt và sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, phát triển đảng viên và chi bộ cơ sở. Hội nghị bầu Huyện ủy lâm thời gồm 5 người. Đồng chí Dương Văn Du được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

Từ tình hình thực tiễn trong nước và thế giới, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”. Từ đây nhân dân các làng của Nam Giang lại bước vào một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản và cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.

Cuối năm 1945, thực hiện Sắc lệnh số 63 của Chính phủ, bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã. Ủy ban hành chính cấp xã bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên làm nhiệm vụ của một cấp chính quyền cơ sở có chức năng tổ chức, quản lý, điều hành xã hội trên địa bàn xã và các phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Xã mới Tiên Long ra đời gồm các làng: Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ (Nam Giang), Đống Nãi, Hội Hiền và làng Nam Thượng (xã Tây Hồ ngày nay).

Từ tháng 12 năm 1945, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, chính quyền xã Tiên Long và các tổ chức đoàn thể cứu quốc như: Mặt trận Việt Minh, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội (Nông dân) tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đi bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm cho mọi người hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thể lệ bầu cử Quốc hội.

Tại các địa điểm trước ngày bầu cử được trang trí rực rỡ cơ hoa, bàn thờ Tổ quốc, các khẩu hiệu. Ngày 6 tháng 1 năm 1946 trở thành một ngày hội lớn của dân tộc. Từ tinh mơ, cử tri đã tấp nập đến nơi bỏ phiếu “chọn mặt gửi vàng”, bầu đại biểu xứng đáng vào Quốc hội khóa đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Kết quả bầu cử, ông Hoàng Sỹ Oánh ứng cử viên của huyện Thọ Xuân trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa I với số phiếu rất cao.

Trước bầu cử Quốc hội, bọn phản động Quốc dân đảng, bọn đội lốt Đảng dân chủ đã tuyên truyền xuyên tạc và có nhiều hoạt động quấy rối nhưng đã bị chính quyền cách mạng ngăn chặn.

Cũng trong tháng 12 năm 1945, lực lượng Tự vệ của hai huyện Thọ Xuân, Nông Cống kết hợp với lực lượng Công an xung phong của tỉnh, tiến hành bao vây, tiêu diệt bọn Quốc dân đảng ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn), trong đó có lực lượng tự vệ của xã Tiên Long.

Bước sang năm 1946, xã Tiên Long nói chung và các làng thuộc xã Nam Giang ngày nay cơ bản đã đẩy lùi được nạn đói, nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, mọi việc cưới xin, ma chay đều được tổ chức theo đời sống mới. An ninh trật tự xã hội được đảm bảo, mặc dù cơ sở vật chất không có gì nhưng chính quyền vận động nhân dân ăn chín uống sôi, ngủ màn, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường... nên đã ngăn chặn được các dịch bệnh thường phát sinh như: tả lỵ, thương hàn, đau mắt đỏ, đậu mùa... đảm bảo sức khỏe cho nhân dân.

Các tổ chức đoàn thể cứu quốc được kiện toàn, mở rộng, là mũi nhọn xung kích trong các phong trào cách mạng ở địa phương.

Thực hiện quyết định của Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tháng 4 năm 1946, cùng với nhân dân các địa phương trong tỉnh, trong huyện, nhân dân Nam Giang đi bầu cử Hội đồng nhân dân hai cấp, cấp tỉnh và cấp xã, bầu ra Ủy ban hành chính các cấp. Ông Hoàng Sỹ Oánh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân. Ông Nguyễn Công Hữu, người làng Hội Hiền được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Tiên Long cùng Phó Chủ tịch và một số ủy viên khác.

Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 5 năm 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập, gọi tắt là Hội Liên Việt. Tháng 6 năm 1946, Hội Liên Việt huyện Thọ Xuân được thành lập (trong đó có xã Tiên Long). Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam là một tổ chức quần chúng xã hội gồm các thân hào, trí thức đến nông dân, đoàn kết mọi lực lượng thực hiện kháng chiến kiến quốc.

Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, sự đoàn kết trong nội bộ lãnh đạo huyện Thọ Xuân chưa cao xuất phát từ hoạt động kinh tài. Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã triệu tập hai hội nghị bất thường của Đảng bộ huyện Thọ Xuân.

Hội nghị lần thứ nhất vào cuối năm 1946 tại đình Nam Thượng xã Tiên Long (nay thuộc xã Tây Hồ), có đồng chí Bí thư Khu ủy khu IV và đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy về dự. Hội nghị thứ hai vào đầu năm 1947 tại đình làng Canh Hoạch, xã Minh Nghĩa (nay thuộc xã Xuân Lai), có đồng chí Hoàng Quốc Việt - Thường vụ Ban Bí thư Trung ương Đảng và đồng chí Bùi Đạt - Bí thư Tỉnh ủy về dự chỉ đạo. Sau hai hội nghị này, khối đoàn kết trong nội bộ Đảng được tăng cường, tạo điều kiện cơ bản thúc đẩy sự nghiệp cách mạng trong huyện phát triển. Và cũng từ đây, tổ chức Đảng và nhân dân xã Tiên Long bước sang một giai đoạn cách mạng mới: giai đoạn cùng cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

II. TẬP TRUNG SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1947 - 1950)

Với dã tâm quay lại xâm lược Đông Dương một lần nữa, thực dân Pháp thẳng tay gạt bỏ mọi khả năng đàm phán hòa bình. Chính phủ Pháp buộc nhân dân ta phải đứng dậy cầm vũ khí bảo vệ nền độc lập tự do mà nhân dân ta vừa mới giành được.

Sau khi đánh chiếm Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, chính phủ Pháp lao vào con đường xâm lược nước ta bằng vũ lực. Trước đó, trong hội nghị toàn quốc của Đảng tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã khẳng định: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược là không tránh khỏi”.

Mười tám tháng trời, thời gian vô cùng ngắn ngủi đối với nhân dân Nam Giang. Vừa diệt giặc đói, diệt giặc dốt và trấn áp nội loạn, đấu tranh với các thế lực phản động bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Mười tám tháng trời vừa tổ chức củng cố chính quyền, xây dựng và phát triển các tổ chức đoàn thể, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống mới.

Đêm 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước...”

Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhân dân xã Tiên Long nói chung và nhân dân 7 làng Nam Giang ngày nay nói riêng cùng cả nước đứng lên kháng chiến, bổ sung, kiện toàn lại lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ. Mỗi làng một tiểu đội, toàn xã Nam Giang có một đại đội 115 người, thường xuyên luyện tập, nhân dân hăng hái ủng hộ tiền, gạo, thực phẩm, mua vũ khí.

Cuối năm 1946, đầu năm 1947, nhân dân trong xã đóng góp hàng ngàn cây tre, hàng ngàn ngày công, đào đắp công sự, rào làng chiến đấu, đào hào xẻ rãnh, hạ các cây to làm chướng ngại vật trên các tuyến giao thông chính ngăn cản quân địch. Không khí kháng chiến tấp nập rộn ràng đến mọi làng xóm.

Tháng 1 năm 1947, Huyện Đoàn thanh niên cứu quốc huyện Thọ Xuân tổ chức hội trại tại rừng Lam Sơn. Chương trình hội trại phong phú, trong đó có văn nghệ, diễn thuyết tuyên truyền đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng và Chính phủ. Đồng chí Đinh Bờm phụ trách cứu quốc xã Tiên Long dẫn hàng trăm thanh niên trong xã về dự hội trại. Sau hội trại Lam Sơn, nhiều thanh niên trong xã Tiên Long ghi tên tòng quân vào Vệ quốc đoàn, trong đó có nhiều người thuộc xã Nam Giang ngày nay.

Để đáp ứng mọi yêu cầu cho kháng chiến, đầu năm 1947, Ủy ban kháng chiến các cấp được thành lập. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Thọ Xuân là ông Hoàng Văn Ngữ. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Tiên Long là ông Hoàng Văn Quỳnh, Ủy ban hành chính xã vẫn song song tồn tại với chức năng quản lý hành chính.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn dân “Tiêu thổ kháng chiến”, 120 dân quân tự vệ của Nam Giang đã đi phá hủy đào hào kháng chiến ở thị xã Thanh Hóa, phố Đầm (Xuân Thiên), phố Khách (thị trấn Thọ Xuân), thời gian 15 ngày, bằng 1.800 ngày công.

Tháng 5 năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tại Xuân Hòa, Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã tổ chức hội nghị toàn thể đảng viên do đồng chí Tố Hữu và đồng chí Bùi Đạt chỉ đạo trực tiếp. Hội nghị kiểm điểm tình hình hoạt động và đánh giá kết quả chỉ đạo của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Vấn đề đoàn kết nội bộ được kiểm điểm sâu sắc, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Hội nghị đề ra chủ trương công tác mới như tập trung chỉ đạo củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng hậu phương vững mạnh đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến. Hội nghị bầu Ban chấp hành Đảng bộ chính thức và bầu đồng chí Trịnh Ngọc Điệt giữ chức Bí thư Huyện ủy.

Sau hội nghị Đảng bộ ở Xuân Hòa, nhiều quần chúng cách mạng ưu tú ở Nam Giang được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng như: Lê Đình Toát, Lê Nhật Nghiêm, Phạm Duy Đào...

Đầu năm 1947, đồng bào các tỉnh ngoài Bắc như Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình tản cư vào Thanh Hóa. Hàng trăm gia đình tập trung về khu vực phố Neo. Với tinh thần tương thân tương ái và chính sách giúp đỡ đồng bò tản cư, chính quyền, các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, các tổ chức cứu quốc đã vận động nhân dân nhường nhà cho đồng bào tản cư tạm ở. Nhân dân nhường đất, ủng hộ vật liệu như: tre, luồng, tranh, phên để đồng bào làm nhà. Nhiều gia đình còn cho ruộng để nhân dân sản xuất, ổn định cuộc sống.

Do yêu cầu phát triển lực lượng quân sự, trang bị vũ khí và lương thực ngày một tăng, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến huyện Thọ Xuân phát động phong trào ủng hộ bộ đội, dân quân tự vệ và ủng hộ kháng chiến. Nhân dân Nam Giang ủng hộ lúa khao quân 75 tạ, mua công trái quốc gia 250 tạ. Tiêu biểu nhất là ông Lê Viết Cổn làng Phong Lạc là người tích cực tham gia “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”. Tại thời điểm này ông đã ủng hộ 10 vạn đồng để cấp dưỡng bộ đội địa phương... Thành tích này đã được tổng Bất Náo tôn vinh đưa lên Kiệu rước về đình làng Phong Lạc để nhận cờ luân lưu và ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhằm quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng và Bác Hồ cho nhân dân trong toàn xã, đầu năm 1947, xã Tiên Long đã cử các cán bộ đi dự lớp tập huấn nghiệp vụ thông tin tuyên truyền do huyện mở tại làng Vĩnh Nghi (nay thuộc xã Hạnh Phúc). Tại lớp tập huấn này, các học viên đã được học tập Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, học tập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Trung ương, bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền và hoạt động văn nghệ quần chúng. Do được tuyên truyền vận động, các tổ chức hội đoàn như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội cứu quốc... hoạt động tích cực. Nhân dân Nam Giang thấm sâu đường lối kháng chiến và các chủ trương, chính sách của Nhà nước, tích cực tăng gia sản xuất đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Tháng 4 năm 1947, huyện Thọ Xuân thành lập đại đội vũ trang tập trung gồm 3 trung đội do đồng chí Lê Thọ Thợi làm đại đội trưởng. Cũng từ đây lực lượng dân quân tự vệ Nam Giang đổi thành lực lượng dân quân du kích, thường xuyên luyện tập, sinh hoạt đời sống và tiền mua vũ khí do nhân dân tình nguyện ủng hộ.

Giữa năm 1947, Hội Mẹ chiến sĩ huyện Thọ Xuân được thành lập, sau đó là Hội Mẹ chiến sĩ xã Tiên Long được thành lập do mẹ Lê Thị Thái ở phố Neo làm Hội trưởng. Suốt trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, mẹ Thái cùng các mẹ trong xã đã đi đầu trong các cuộc vận động nhân dân ủng hộ bộ đội, đón thương binh về làng nuôi dưỡng, động viên chị em phụ nữ may vá quần áo cho chiến sĩ; vận động nhân dân mua bánh quà, thuốc men chăm sóc thương binh, vận động bộ đội giết giặc lập công, ủng hộ 3 máy khâu; 7 phụ nữ Nam Giang nhận nuôi 7 thương binh và lấy làm chồng, nhận nuôi 15 thương binh từ miền Nam ra tập kết, ủng hộ 300.000 đồng.

Theo chủ trương của Đảng và Chính phủ về triệt để sơ tán các cơ quan, công sở, xí nghiệp, đơn vị bộ đội đến những nơi an toàn. Từ năm 1947 đến hết năm 1954, xã Nam Giang đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiều đơn vị bộ đội, các cơ quan, xí nghiệp sơ tán về làm việc, luyện quân như: Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV, xưởng công binh Bình Tứ, Tòa án quân sự liên khu IV, các đơn vị bộ đội như: Sư đoàn 304, Sư đoàn 308, Sư đoàn 316 về đóng quân huấn luyện; Trường Văn hóa nghệ thuật, xưởng Dược... Xã nhường 4 ngôi đình và hàng trăm nhà dân cho các cơ quan và bộ đội ở làm việc. Đặc biệt là giúp đồng bào Liên khu Ba tản cư vào ở địa bàn xã, nhiều gia đình trong xã đã nhường nhà cho bà con ở, nhưng tập trung nhiều nhất là ở khu vực chợ Neo (làng Phúc Trạch Hạ) chính quyền đã cấp đất, nhân dân giúp vật liệu tranh, tre, nứa lá cho bà con làm nhà ở làm ăn sinh sống. Từ đó đã hình thành một khu phố (phố Neo) buôn bán đủ các mặt hàng, dần dần phát triển thành trung tâm kinh tế, văn hóa của khu vực và cái tên phố Neo, chợ Neo vang xa từ đó cho đến tận ngày nay.

Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 mở ra một cục diện mới có lợi cho ta. Thực dân Pháp không thực hiện được chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, buộc phải tiến hành chiến lược bình định vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và tăng cường đánh phá vùng tự do ác liệt hơn. Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 làm nức lòng nhân dân xã Nam Giang, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp cho kháng chiến.

Sau Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ Nhất, tháng 5 năm 1947, nhiều quần chúng cách mạng được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Trong hai năm 1947 - 1948, Nam Giang có ông Lê Đình Toát, Phạm Duy Đức, Phạm Hữu Miêng, Phạm Hữu Bưu, Phạm Duy Trúc... được kết nạp vào Đảng. Cũng từ đây, tổ chức Đảng ở Nam Giang ngày một lớn mạnh, cũng là mũi nhọn xung kích trong mọi phong trào cách mạng ở địa phương.

Theo quyết định của Chính phủ, để đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Nhà nước, từ tháng 3 năm 1948, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo việc hợp nhất UBKC và UBHC các cấp thành UBKC- HC; cũng trong thời gian này xã Tiên Long sát nhập với xã Công Lý và được đổi tên thành xã Thọ Long.

Xã lớn Thọ Long gồm 12 làng: Nam Thượng, Hội Hiền, Đống Nãi, Mỹ Lý Thượng, Mỹ Lý Hạ, Trung Thôn và Nhuế Thôn, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, do ông Nguyễn Công Hữu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã.

Trước đó, vào tháng 01 năm 1948, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ Nhất được tổ chức tại thôn Tân An (nay thuộc xã Xuân Hòa). Đồng chí Hồ Việt Thắng - Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ:

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên các mặt công tác.

- Phấn đấu xóa điểm trắng cơ sở Đảng, xã nào cũng có chi bộ Đảng.

- Thực hiện giảm tô 25%, đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất.

- Củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích.

Đại hội bầu ra 9 ủy viên chấp hành và bầu đồng chí Phạm Kỳ Vân giữ chức Bí thư Huyện ủy.

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ Nhất, ngày 5 tháng 3 năm 1948, Chi bộ Đảng Cộng sản xã Thọ Long được thành lập trên cơ sở Chi bộ xã Công Lý và 2 tổ Đảng của xã Tiên Long gồm 29 đảng viên. Đồng chí Lê Xuân Mâu được Huyện ủy cử về trực tiếp thành lập và làm Bí thư Chi bộ. Một thời gian sau, đồng chí Lê Xuân Mâu được huyện điều đi công tác khác, đồng chí Lê Văn Tốn được bầu làm Bí thư Chi bộ.

Tháng 2 năm 1948, hưởng ứng phong trào “Luyện quân lập công”, dân quân du kích xã Thọ Long không ngừng được bồi dưỡng và tập luyện để nâng cao nghiệp vụ:

- Về chính trị: Dân quân du kích được giáo dục bản chất cách mạng, chức năng nhiệm vụ của dân quân du kích, học tập đường lối kháng chiến của Đảng.

- Về quân sự: Dân quân du kích được huấn luyện cơ bản về chiến thuật đánh du kích, cách phối hợp chiến đấu, kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đánh giáp lá cà và xây dựng làng chiến đấu.

 Nhằm biểu dương lực lượng vũ trang huyện và đánh giá kết quả huấn luyện, rút kinh nghiệm bổ sung kế hoạch tác chiến, giữa năm 1948, tại sân vận động Thọ Xuân, Đại hội dân quân du kích toàn huyện được khai mạc. Thành phần tham gia Đại hội mỗi xã tham gia một trung đội dân quân, một trung đội du kích và một trung đội Lão dân quân, do cơ quan huyện đội bộ dân quân huyện chỉ huy, công tác hậu cần do các xã tự túc.

Sau 5 ngày Đại hội, giải nhất thuộc về ba xã: Trung đội Lão dân quân xã Xuân Hòa, Trung đội du kích xã Thọ Long và Trung đội dân quân xã Phú Yên.

Cũng trong năm 1948, Đảng bộ huyện đã tiến hành công tác xây dựng Đảng theo yêu cầu xây dựng chi bộ đạt danh hiệu “Tự động”, “Tiến bộ” và “Gương mẫu”.

Để có kinh phí hoạt động, khắc phục từng bước khó khăn, Đảng bộ huyện Thọ Xuân kêu gọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ủng hộ xây dựng quỹ Đảng. Với ý thức giác ngộ giai cấp, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Giang đã góp được 7.500kg thóc.

Hưởng ứng phong trào “Dân quân tự túc”, nhiều gia đình ở Nam Giang nhận nuôi từ 1 đến 2 dân quân du kích. Những gia đình nhiều ruộng thì ủng hộ vài sào, ủng hộ lợn, bò để lập quỹ nuôi dưỡng dân quân du kích.

Cuối năm 1949, hưởng ứng cuộc vận động mua công phiếu kháng chiến, nhân dân Nam Giang đã mua với số tiền 550.000 đồng (Tiền tài chính).

Nhằm cải thiện đời sống nhân dân, nhất là tầng lớp nông dân nghèo (bần, cố nông) và động viên sức người, sức của cho kháng chiến kiến quốc, ngày 14 tháng 7 năm 1949, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh giảm tô 25%. Huyện ủy Thọ Xuân thành lập Ban chỉ đạo các cấp để thực hiện sắc lệnh. Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân đã chọn ấp ông Hàn Thước có trên 100 mẫu cấy lúa, phần lớn tá điền là người ngoài Bắc như: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Lúc đầu ông Hàn Thước xin giảm tô 15%, nhưng do được tuyên truyền vận động, mặt khác do sức ép của nông dân, Hàn Thước buộc phải chấp nhận giảm tô 25%.

Giảm tô ở ấp Hàn Thước thắng lợi tạo đà, tạo thế cho nhân dân đấu tranh buộc các chủ đất trong huyện Thọ Xuân phải giảm 25% địa tô.

Đối với Nam Giang, địa chủ không nhiều, vả lại cũng ít đất, gia đình nhiều cũng chỉ mười, hai mươi mẫu. Do chi bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, hội Phụ nữ, Thanh niên, Phụ Lão cứu quốc... học tập, vận động tuyên truyền sâu rộng nên công tác giảm tô ở Nam Giang sớm thành công, đem ại quyền lợi cho dân nghèo.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, cùng với cuộc vận động giảm tô, phong trào xây dựng tổ đổi công, vần công ở Nam Giang cũng ra đời. Nông dân giúp nhau lao động sản xuất, giải quyết kịp thời những khó khăn về nhân lực, thời vụ, sức kéo trâu, bò. Quan hệ sản xuất mới hình thành. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển. Chi bộ và chính quyền còn chia lại công điền, công thổ, đất vắng chủ cho nông dân nghèo, vận động những gia đình nhiều đất hiến ruộng cho các tổ chức đoàn thể, đồng bào tản cư.

Công tác văn hóa, giáo dục được chi bộ và chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ban thông tin tuyên truyền được thành lập xuống từng làng, mỗi làng dựng một chòi phát thanh, dùng loa bằng sắt tây hoặc bằng quả bầu đất khô, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, chính phủ, tin chiến thắng ngoài mặt trận, công việc ở địa phương, gương người tốt việc tốt... đều được thông tin kịp thời tới nhân dân. Thực hiện đời sống mới, việc cưới hỏi được tổ chức trang trọng nhưng tiết kiệm, có đại diện chính quyền, các tổ chức đoàn thể đến dự hoặc chia buồn. Về tín ngưỡng, Nam Giang là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa như: đình, chùa, miếu mạo, văn chỉ hàng huyện, điện Càn Long thờ các vua và Thái hậu... tất cả đều được nhân dân và chính quyền bảo vệ nguyên vẹn, các lễ hội, kỳ lệ được tổ chức giản tiện, trang nghiêm, tiết kiệm, phù hợp trong điều kiện kháng chiến kiến quốc.

Về giáo dục: Chi bộ và chính quyền nhận thức sâu sắc mục tiêu đào tạo con người có kiến thức để phục vụ kháng chiến kiến quốc. Nam Giang vẫn duy trì 3 khu học của trường Tiểu học. Khu 1 đặt tại Văn chỉ hàng huyện (khu phố Neo ngày nay), có 2 lớp Đồng ấu (lớp 5) và lớp dự bị (lớp 4). Khu 2 đặt ở nhà ông Đìu và ông Xuân Hỡi (làng Phúc Hạ ngày nay). Khu 3 đặt tại Giếng Chùa làng Phong Lạc. Nhiều thầy, cô giáo đã gắn bó sự nghiệp giáo dục của mình với Nam Giang như: thầy Thái Văn Chén, Tô Văn Bào, thầy Khuê ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), thầy Trần Xuân Mậu quê ở xã Thọ Minh, thầy Lan và nhiều thầy cô khác. Mặc dù đời sống khó khăn, lương giáo viên ít ỏi lớp học tạm bợ, nhưng với tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ, các thầy, cô giáo vượt lên khó khăn, trao truyền kiến thức cho thế hệ trẻ. Tiếp tục cho đi bổ túc ngắn ngày lớp giáo viên bổ túc văn hóa do huyện tổ chức từ ngày 22 đến 24 tháng 7 năm 1951.

 Nam Giang là vùng đất có truyền thống tôn sư trọng đạo, nhiều gia đình đã tạo điều kiện về nơi ăn chốn ở, điều kiện sinh hoạt cho các thầy, cô giáo quê ở xa. Đó chính là động lực để sự nghiệp giáo dục Nam Giang phát triển.

Về công tác y tế: Sau khởi nghĩa giành chính quyền, Nam Giang là địa phương sớm thực hiện và duy trì phong trào ăn chín uống sôi, vệ sinh cá nhân, làm nhà tiêu, ngủ màn, vệ sinh đường làng ngõ xóm sạch sẽ phong quang, một số dịch bệnh thường xảy ra trước đây như: bệnh thương hàn, tả lỵ, đau mắt đỏ, đậu mùa... đã được hạn chế, không phát sinh. Từ đầu năm 1950, ngành y tế tiến hành chủng đậu thường xuyên, cũng từ đây bệnh đậu mùa không còn xuất hiện ở Nam Giang và các vùng quê khác trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Công tác Đảng và các tổ chức đoàn thể: Từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản xã Thọ Long được thành lập với 29 đảng viên, sinh hoạt trong 3 tổ Đảng, đến năm 1950 chi bộ đã có hàng trăm đảng viên sinh hoạt ở nhiều tổ Đảng. Ở Nam Giang, đảng viên làm nòng cốt trong mọi phong trào ở địa phương cả về đạo đức và hành động. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân ngày càng sâu rộng. Riêng làng Cao Phong từ năm 1947 - 1950 đã có 17 đảng viên. Các làng khác cũng có trên dưới mười đảng viên. Hầu hết các đảng viên, các tổ đảng đều đạt danh hiệu “Tự động”, “Tiến bộ”, “Gương mẫu”.

Các tổ chức đoàn thể như: Hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội, Phụ lão, Thiếu nhi... hoạt động có hiệu quả. Sự phối hợp nhịp nhàng chặt chẽ giữa tổ chức đảng với các tổ chức đoàn thể, cùng với nhân dân đoàn kết thấm nhuần đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng, đã góp phần đưa địa phương Nam Giang thực hiện thành công nhiệm vụ “xây dựng hậu phương phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, tạo ra tiềm lực chi viện cho tiền tuyến” như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân khóa II (tháng 3 năm 1949) đã đề ra([12]).

III. VƯỢT LÊN KHÓ KHĂN, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO KHÁNG CHIẾN (1950 - 1954)

Bước sang năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nước dân chủ nhân dân như Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác công nhận Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ngày một phát triển khiến thực dân Pháp ngày một bị động và lúng túng, mặc dù đế quốc Mỹ giúp Pháp can thiệp vào Đông Dương. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của cả dân tộc đã tạo thế và lực đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bước sang một giai đoạn mới.

Tháng 1 năm 1950, tại Hội nghị Trung ương Đảng toàn quốc lần thứ III đã nhận định: “Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch... gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Nghị quyết Hội nghị cũng nêu rõ: “phải chiến đấu để tiêu diệt sinh lực địch, gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng bộ đội chủ lực, đưa chiến tranh du kích lên ngang với chiến tranh chính quy, tích cực phá tề trừ gian, thực hiện tổng động viên theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”.

Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ III tại đình làng Quản Hạ (nay thuộc xã Thọ Lộc), từ ngày 20 đến 23 tháng 5 năm 1950, tổ chức Đảng và chính quyền Thọ Long phát động phong trào đẩy mạnh giảm tô, giảm tức, phát triển tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho kháng chiến.

Vào giữa năm 1950, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân thành lập Ban cung cấp tiền phương do đồng chí Chủ tịch làm Trưởng ban và một số thành viên trong các tổ chức đoàn thể, bên dưới là ban cung cấp các xã có nhiệm vụ: Triển khai kế hoạch điều động, tổ chức nhân lực, vật lực phục vụ cho tiền tuyến.

Hưởng ứng cuộc vận động mua “Công trái quốc gia” do Chính phủ ban hành, do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, nhân dân các làng xã Thọ Long (trong đó có các làng xã Nam Giang ngày nay) đã mua với số lượng cao, đạt 250 tạ thóc.

Thực hiện chính sách dân công phục vụ tiền phương, trong hai năm 1950 - 1951, Thọ Long có nhiều đợt dân công với hàng trăm lượt người cùng với dân công của huyện, của tỉnh vận chuyển 5.000 tấn lương thực ra khu III chuẩn bị cho chiến dịch Hà Nam Ninh.

Để giành quyền kiểm soát biên giới phía Bắc, nối liền cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc, Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Trong 2 ngày 16 và 17 tháng 9 năm 1950, quân ta đã chiến đấu kiên cường, giải phóng Cao Bằng, tiêu diệt và bắt sống hoàn toàn địch trong đồn lũy.

Chiến dịch Biên giới thắng lợi đã mở thông quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và nhiều nước khác, đồng thời đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta từ chiến lược chiến tranh du kích lên chiến lược chiến tranh chính quy.

Trung tuần tháng 2 năm 1951, từ ngày 11 đến ngày 19, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ đặc điểm tình hình của mỗi nước, Đại hội quyết định chia Đảng Cộng sản Đông Dương thành 3 đảng: Đảng Lao động Việt Nam; Đảng nhân dân cách mạng Lào và Đảng nhân dân cách mạng Campuchia.

Cũng trong tháng 3 năm 1951, Huyện ủy Thọ Xuân chỉ đạo hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt huyện Thọ Xuân, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức đoàn thể cứu quốc là thành viên, tạo thành khối đoàn kết thống nhất toàn dân tham gia kháng chiến kiến quốc.

Ngày 3 tháng 3 năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Huyện ủy Thọ Xuân tổ chức mít tinh trọng thể chào mừng tại sân vận động thị trấn Thọ Xuân. Đồng chí Bí thư Huyện ủy đọc diễn văn tóm tắt sự ra đời, hoạt động của Đảng; giải thích nguyên nhân, điều kiện Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai, tuyên bố trước quốc dân đồng bào sự lãnh đạo công khai, toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp của Đảng bộ huyện với sự nghiệp cách mạng trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Tại cuộc mít tinh này, Mặt trận Liên Việt ra mắt nhân dân trong huyện. Xã Thọ Long tổ chức mít tinh tại chợ Neo chào mừng Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Cuộc mít tinh có hàng ngàn người tham gia, biểu hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất định thắng lợi.

Bị thua đau trên các mặt trận, thực dân Pháp tăng cường đánh phá vùng hậu phương của ta nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến và lung lạc ý chí kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta. Huyện Thọ Xuân trong hai năm 1950 - 1951, máy bay Pháp bắn phá nhiều nơi như: đập Bái Thượng, xã Xuân Lập, xã Thọ Nguyên, thị trấn Thọ Xuân... làm chết và bị thương hàng trăm người, phá hủy hàng trăm nóc nhà, giết chết hàng trăm con trâu, bò và phá hủy nhiều tài sản khác.

Tại xã Thọ Long, ngày 12 tháng 5 năm 1951, giữa lúc nhân dân đang họp chợ, nhiều máy bay Pháp đã ném bom bắn phá bừa bãi xuống khu vực chợ Neo và làng Phúc Trạch Thượng, làm chết 11 người và bị thương 35 người, có gia đình chết cả 4 người, làm cháy hàng chục ngôi nhà, hư hỏng nhiều hoa màu, giết hại gia súc, gia cầm và phá hỏng nhiều tài sản khác của nhân dân.

Vượt lên đau thương mất mát, dưới sự chỉ đạo của chính quyền, lực lượng dân quân du kích và nhân dân kịp thời đưa người bị thương đi cứu chữa, mai táng người chết, ủng hộ tiền, gạo, vật liệu xây dựng lại nhà cho người bị nạn, giúp nhân dân sớm ổn định lại cuộc sống.

Đầu năm 1950, theo chủ trương của Khu ủy khu IV và của Tỉnh ủy Thanh Hóa, Huyện ủy Thọ Xuân tiến hành cuộc vận động “Tự phê bình và phê bình” trong Đảng theo nội dung thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời mở nhiều lớp bồi dưỡng văn hóa, đường lối quan điểm của Đảng cho đảng viên. Trong cuộc vận động này, tư tưởng cục bộ địa phương, quan liêu, mệnh lệnh, tự do chủ nghĩa vô kỷ luật đã bị phê bình nghiêm khắc. Thời gian này tạm thời ngừng phát triển đảng viên (đóng cửa).

Sau cuộc vận động này, trình độ lý luận, kinh nghiệm lãnh đạo của cán bộ, đảng viên ở Thọ Long từng bước được nâng lên. Hoạt động của tổ chức Đảng đi vào nề nếp.

Sau cuộc vận động “phê bình và tự phê bình”, cấp ủy và chính quyền xã Thọ Long được kiện toàn, đồng chí Hoàng Văn Thi được bầu làm Bí thư Chi bộ. Đồng chí Lê Ích Khắc giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã.

Để tăng cường tiềm lực phục vụ cho chiến trường, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng chế độ mới. Năm 1951, Đảng và Chính phủ ban hành chính sách thuế nông nghiệp.

Thực hiện sắc lệnh Thuế nông nghiệp của Chính phủ, tháng 8 năm 1951, Huyện ủy triệu tập hội nghị tại đình làng Cốc Thượng xã Xuân Thịnh (nay thuộc huyện Triệu Sơn), thành phần gồm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính 24 xã và Trưởng các ban, ngành, đoàn thể trong toàn huyện. Đồng chí Hà Trọng Hòa - Phó Bí thư Huyện ủy thay mặt Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện phổ biến chủ trương thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Sau hội nghị này, huyện mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thuế cho đội ngũ cán bộ các cấp.

Tháng 10 năm 1951, xã Thọ Long (Tây Hồ, Bắc Lương và xã Nam Giang ngày nay) tiến hành kiểm kê ruộng đất, phân mảnh định hạng. Chi bộ tổ chức cho nhân dân học tập chính sách thuế nông nghiệp và đấu tranh chống các thủ đoạn khai man, giấu diện tích. Do công tác tuyên truyền vận động tốt, nhân dân thấm nhuần đường lối của Đảng và Chính phủ, nhân dân đóng thuế đầy đủ, đúng thời hạn. Trong vòng 4 năm, từ vụ mười năm 1951 đến vụ mười năm 1954, nhân dân Nam Giang đã đóng cho Nhà nước 850 tấn thóc thuế nông nghiệp.

Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, chi viện nhân lực, vật lực cho chiến trường, Huyện ủy chỉ đạo xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích theo phương hướng “Tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Vào thời điểm này, ngoài lực lượng tham gia trong đại đội của xã, mỗi làng ở Nam Giang có một tiểu đội dân quân, lương thực, thực phẩm do nhân dân trong làng đóng góp.

Sau chiến dịch Quang Trung (tháng 11 năm 1951), chiến dịch Hòa Bình mở màn, huyện Thọ Xuân huy động 3.000 dân công vận chuyển lương thực, vũ khí, tải thương, thời gian 4 tháng; đợt ngắn hạn từ 15 ngày đến một tháng. Hàng trăm dân công Nam Giang có mặt phục vụ chiến dịch và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Mặc dù gặp muôn vàn khó khăn trong kháng chiến nhưng nền giáo dục huyện Thọ Xuân vẫn không ngừng phát triển, hầu hết các xã trong huyện đều có trường cấp I. Đến năm 1952, cả huyện có 4 trường cấp II. Đó là các trường cấp II Thọ Xuân, Thọ Minh, Quang Trung (Xuân Bái) và trường tư thục Thọ Long do thầy Trương Cảnh Tam làm Hiệu trưởng, tiếp sau là thầy Phạm Hữu Tình làm Hiệu trưởng. Có thể nói, trong kháng chiến gặp muôn vàn khó khăn, nhưng từ những mái trường thân yêu này đã đào tạo nên nhiều thế hệ thanh niên có văn hóa, phục vụ cho kháng chiến. Bên cạnh các trường học phổ thông, các lớp bình dân học vụ vừa được duy trì ở các làng, học sinh phần lớn là nông dân, người cao tuổi, ban ngày lao động sản xuất, buổi tối sách đèn chai đến lớp học, đội ngũ giáo viên tình nguyện không có thù lao.

Về y tế: Trong kháng chiến chống Pháp, cũng như nhiều địa phương khác, Nam Giang chưa có trạm xá và hệ thống cán bộ y tế cơ sở. Công tác y tế thời điểm này chủ yếu là phòng bệnh. Cuộc vận động nhân dân ăn chín uống sôi, ngủ màn, vệ sinh cá nhân... được nhân dân đồng tình thực hiện, nhờ đó đã hạn chế được dịch bệnh.

Về công tác thông tin tuyên truyền: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang là địa phương có hoạt động thông tin tuyên truyền mạnh trong huyện. Bên cạnh các hội nghị của chi bộ, các đoàn thể như: Mặt trận Liên Việt, Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Phụ lão... nghe phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ, tin chiến thắng từ các mặt trận được quán triệt sâu sắc đến từng hội viên, đoàn viên. Hình thức tuyên truyền bằng băng zôn, khẩu hiệu, các chòi cảnh giới phát thanh cũng được duy trì. Những hoạt động trên đã giúp các tầng lớp nhân dân Nam Giang thấm nhuần đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng, toàn tâm toàn ý đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến thành công.

Công tác an ninh và bảo mật trừ gian: Do điều kiện địa lý, Nam Giang có hai tuyến giao thông huyết mạch chi viện nhân lực vật lực từ Khu IV lên miền Tây Thanh Hóa cho các mặt trận Tây Bắc và nước bạn Lào, trong vòng 7 năm (1947 - 1954), địa phương Nam Giang đón tiếp nhiều cơ quan của Khu III, Khu IV, của Tỉnh sơ tán về làm việc. Nhiều đơn vị bộ đội về điều dưỡng, học tập chỉnh huấn. Nam Giang cũng là nơi Nhà nước đặt kho tàng phục vụ cho tiền tuyến... Bởi thế công tác an ninh trật tự, bảo mật trừ gian được chi bộ, chính quyền hết sức quan tâm. Nhân dân thấm nhuần đường lối kháng chiến, thực hiện “ba không” (không biết, không nói, không chỉ), góp phần bảo vệ an toàn kho tàng, cơ quan, xí nghiệp về đóng trên địa bàn.

Năm 1952, vì thất bại về quân sự trên các mặt trận, nhằm triệt phá nguồn lực kinh tế địa phương chi viện cho tiền tuyến, thực dân Pháp cho máy bay ném bom phá hỏng đập Bái Thượng, làm mất nguồn nước tưới cho lúa và hoa màu 5 huyện trong tỉnh, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và giảm sức chi viện cho chiến trường.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân, Nam Giang huy động hàng ngàn ngày công đào đắp ao hồ, đào giếng để có nước tưới cho lúa và hoa màu, chuyển diện tích cấy hai vụ lúa sang một vụ lúa một vụ màu, áp dụng biện pháp thâm canh, chăm bón để có năng suất phục vụ đời sống nhân dân và đóng góp lương thực cho Nhà nước.

Cũng trong năm 1952, một số tên địa chủ phản động liên kết với nhau phá hoại kinh tế. Một số đã lọt vào chính quyền các cấp, kích động quần chúng chống lại đường lối kháng chiến, chống lại chính sách thuế nông nghiệp, huy động dân công giảm tô, giảm tức... ở xã Thọ Hải hình thành hai tổ chức phản động là “Đại Việt” và “Bảo an đoàn”. Hai tổ chức này công khai chống lại chính sách thuế nông nghiệp và chính sách điều động nhân công.

Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy và Huyện ủy Thọ Xuân về việc phát động đấu tranh chính trị, cuối năm 1952, các xã Thọ Lộc, Thọ Ngọc, Xuân Phong, Thọ Dân, Xuân Thiên, Phú Yên... tiến hành đấu tranh chính trị. Trước khí thế đấu tranh của nhân dân, nhiều địa chủ cường hào đã hứa trước nhân dân ủng hộ kháng chiến, không tiếp tay cho bọn phản động chống phá cách mạng.

Tại Thọ Hải và Thọ Nguyên, quần chúng đã đấu tranh vạch trần bọn phản động theo tổ chức “Liên tôn diệt cộng” của Tuệ Quang, Tuệ Chiểu và các tổ chức phản động khác.

Cuộc đấu tranh chính trị đã thúc đẩy nhân dân Nam Giang hăng hái sản xuất, đóng góp tích cực sức người, sức của cho kháng chiến. Các chính sách thuế nông nghiệp, dân công được thực hiện nghiêm túc, uy thế của nhân dân lao động được đề cao, giai cấp địa chủ phong kiến từng bước bị đánh đổ.

Đầu năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Thọ Xuân tổ chức cho nhân dân trong huyện đấu tranh giảm tô triệt để. Huyện chọn xã Thọ Long (nay là các xã Tây Hồ, Bắc Lương và Nam Giang) làm thí điểm và được các đồng chí Trần Cung, Bồ Xuân Luật - Ủy viên Thường vụ Quốc hội trực tiếp chỉ đạo.

Đấu tranh giảm tô thắng lợi ở Thọ Long, huyện đúc rút kinh nghiệm, tiến hành giảm tô triệt để toàn huyện và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để cải cách ruộng đất.

Trong vòng hai năm 1952 - 1953, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã lớn Thọ Long nói chung và nhân dân Nam Giang ngày nay nói riêng là đơn vị tiên phong trong việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, thuế công thương, đấu tranh chính trị và tiến hành giảm tô triệt để thắng lợi, đem lại quyền lợi cho nông dân, củng cố hậu phương vững mạnh, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Vai trò của nhân dân lao động ngày một nâng cao.

Do yêu cầu tăng cường quản lý hành chính cấp cơ sở, quản lý xã hội cấp xã (còn hạn chế về trình độ năng lực), từ tháng 8 năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, các xã lớn chia tách thành các xã nhỏ hơn. Ngày 21 tháng 8 năm 1953, xã Thọ Long được chia làm 3 xã: Tây Hồ, Bắc Lương và Nam Giang và dựa vào đặc thù địa lý tự nhiên để đặt tên xã. Phía tây của xã lớn Thọ Long gồm 3 làng Nam Thượng, Hội Hiền và làng Đống Nãi; giữa xã lại có hồ lớn nên đặt là xã Tây Hồ. Phía bắc xã Thọ Long có 4 làng: Mỹ Lý Thượng, Mỹ Lý Hạ, làng Trung Thôn và làng Nhuế Thôn là một trong những vùng đất trọng điểm cấy lúa và hoa màu nên đặt tên là xã Bắc Lương. Vùng đất phía nam của xã Thọ Long cũ gồm 5 làng cổ: Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ, Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong; đồng thời huyện điều chỉnh địa giới hành chính, cắt làng Phong Lạc thuộc xã Phong Phú (Xuân Phong ngày nay) và làng Kim Bảng xã Quả Nhuệ (nay là xã Thọ Lộc) về xã Nam Giang. Vùng đất này có sông Nông Giang, khởi nguồn từ Bái Thượng chảy qua, lại ở phía Nam của xã lớn Thọ Long nên đặt tên là Nam Giang. Như vậy, mặc dù đã chia tách nhưng mỗi xã đều để lại những kỷ niệm về xã lớn Thọ Long. Mặt khác, do phong tục tập quán sản xuất, văn hóa tín ngưỡng như nhau, lại là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng nên nhân dân đoàn kết gắn bó keo sơn và luôn đứng tốp đầu trong mọi phong trào cách mạng ở địa phương Thọ Xuân.

Xã mới Nam Giang ra đời đồng nghĩa với việc thành lập bộ máy hành chính, tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng. Với tinh thần tập trung nhân lực, vật lực cho kháng chiến, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính xã Nam Giang được thành lập, do ông Lê Đức Sinh (làng Phúc Thượng) làm Chủ tịch; ông Đào Văn Lực làm Phó Chủ tịch; ông Lê Trọng Thung phụ trách về quân sự; ông Lê Đình Tuynh (làng Cao Phong) phụ trách Nông hội (Hội nông dân); ông Lê Văn Sĩ phụ trách Mặt trận Liên Việt và các Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính xã, các tổ chức đoàn thể như: thanh niên, phụ nữ,... cũng được kiện toàn và đi vào hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

Cùng với việc kiện toàn bộ máy hành chính, các tổ chức quần chúng, Chi bộ Đảng Lao động Việt Nam xã lớn Thọ Long được chia làm 3 chi bộ. Ngày 25 tháng 8 năm 1953(1), Chi bộ Đảng xã Nam Giang được thành lập, do đồng chí Lê Trọng Sóc (làng Phúc Thượng) làm Bí thư Chi bộ.

Để đáp ứng nhu cầu kháng chiến, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đoàn và kế hoạch, hướng dẫn của Tỉnh đoàn Cứu quốc Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Huyện đoàn Thọ Xuân quyết định huy động mỗi xã 10 đoàn viên cứu quốc trở lên tham gia lực lượng Thanh niên xung phong. Lực lượng này gồm những đoàn viên có sức khỏe tốt, giác ngộ cách mạng cao, có ý thức kỷ luật và có trình độ văn hóa (biết đọc biết viết). Nam Giang có 10 người tham gia.

Cuối năm 1953, để tranh thủ sự ủng hộ của các nước Xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc và củng cố, tăng cường sự đoàn kết của các đảng, quân đội 3 nước anh em thực hiện chủ trương của Đảng về phát động và tổ chức “Tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô”. Đợt sinh hoạt văn hóa văn nghệ này đã cuốn hút nhiều quần chúng tham gia, đủ các thành phần, lứa tuổi. Các bài hát được phổ biến nhất như “Yêu hòa bình Tổ quốc chúng ta”, “Tình hữu nghị Việt - Trung - Xô”.

Trong kháng chiến, máy bay Pháp không hoạt động vào ban đêm, do đó trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô ở Nam Giang, đình làng, sân chùa tối nào cũng tụ tập đông người, múa hát đèn đuốc sáng trưng. Qua đợt sinh hoạt văn hóa này, nhân dân hiểu thêm về quan hệ 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô. Nhân dân đoàn kết, tình quân dân thắm thiết, các phong trào đấu tranh giai cấp, sản xuất tiết kiệm, đi bộ đội, đi dân công... được đẩy mạnh thêm một bước.

Chín năm xây dựng và chiến đấu bảo vệ chính quyền nhân dân, chi bộ Đảng và nhân dân xã Nam Giang đã ghi vào lịch sử quê hương những dòng chói lọi. Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, nhân dân Nam Giang đã đón hàng trăm gia đình đồng bào tản cư từ ngoài Bắc vào, tạo điều kiện giúp đỡ về tinh thần và vật chất để đồng bào sớm ổn định cuộc sống và tham gia kháng chiến. Chi bộ và nhân dân Nam Giang đã ủng hộ tinh thần, vật chất và bảo vệ an toàn các cơ quan của Khu III, Khu IV, các cơ quan của Tỉnh sơ tán về địa phương và các đơn vị bộ đội về trú quân, đóng quân an dưỡng, chỉnh huấn trên địa bàn. Thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, chi bộ và chính quyền Nam Giang đã thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, huy động cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đó là các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”, “Hũ gạo tiết kiệm”, “Công trái quốc gia”, “Ủng hộ quỹ Đảng”, “Chăm sóc thương binh”, “Ủng hộ lúa kháng chiến”, “Chính sách thuế nông nghiệp”... Đấu tranh chính trị gắn liền với giảm tô, giảm tức triệt để, đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân lao động và đóng góp cho kháng chiến.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang có 136 thanh niên tình nguyện vào bộ đội; 67 thanh niên vào lực lượng Thanh niên xung phong; 869 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến, đợt ngắn từ 15 ngày đến một tháng; đợt dài từ 2 đến 4 tháng, phục vụ các mặt trận Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Thượng Lào và cuối cùng là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Máy bay Pháp cũng đã nhiều lần ném bom, bắn phá vào địa bàn xã Nam Giang làm chết và bị thương nhiều người, làm hư hỏng nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Giang có 15 liệt sĩ, 05 thương binh.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, do có nhiều công lao đóng góp, Nam Giang vinh dự được Đảng và Nhà nước công nhận 01 cán bộ lão thành cách mạng và hàng trăm Huân, Huy chương các loại, Bằng khen, Giấy khen của các cấp, các ngành cho tập thể và cá nhân.

Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tyến 17 làm giới tuyến tạm thời, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.


 

 

Chương IV

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ CẢI TẠO

VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG

MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

(1954 - 1975)

 

I. HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN CHỦ, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI (1954 - 1964)

Chiến thắng Điện Biên Phủ và sau đó là Hiệp định Giơnevơ đã đánh dấu sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Theo Hiệp định, nước ta tạm thời chia làm hai miền; miến Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự kiểm soát của các thế lực đế quốc và tay sai. Đế quốc Mỹ dần dần thay chân Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cản trở quá trình thống nhất hai miền Nam - Bắc, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miềm Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời kỳ này, cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh Hóa cũng phải đối mặt với những khó khăn, phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra, nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Tại miền Tây Thanh Hóa, bọn tàn quân Phỉ được sự tiếp tay của các thế lực phản động, đế quốc đã khôi phục lại tổ chức. Chúng đẩy mạnh các hoạt động quấy phá ở vùng cao Tam Chung, Quang Chiểu thuộc huyện Quan Hóa. Vừa rêu rao luận điệu xuyên tạc “Đầu năm hòa bình, cuối năm chiến tranh”, “Chế độ miền Bắc sưu cao, thuế nặng”, “Bên Lào hàng hóa rẻ, dễ mua”… làm giảm lòng tin đồng bào các dân tộc trong tỉnh đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu, hạ thấp ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng vừa bắt cóc uy hiếp cán bộ của ta ở cơ sở, làm cho nhân dân hoang mang.

Ở các vùng đồng bào Thiên chúa sống tập trung, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cở sở phá hoại lâu dài. Lợi dụng vào điều 14 D của Hiệp Định Giơnevơ quy định về chọn vùng, đổi vùng, chúng tung ra những luận điệu “Miền Bắc sẽ chết đói”, “Miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “Chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”… Bằng những thủ đoạn lừa bịp, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam.

Thọ Xuân là một trong những huyện có số giáo dân tập trung đông ở trong tỉnh (chiếm khoảng 8% dân số toàn huyện) chủ yếu ở các xã Quảng Phú, Xuân Sơn, Thọ Xương nằm trong tình trạng bất ổn đó.

Quán triết chỉ thị của Khu ủy khu 4 và chỉ thị của Tỉnh ủy Thanh Hóa, tuy xã Nam Giang không có giáo dân nhưng chi bộ và chính quyền xã vẫn triển khai chỉ thị của cấp trên, làm tốt công tác tuyên truyền và kêu gọi nhân dân cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của địch.

Tháng 9 năm 1954, mưa lớn dài ngày, nước ở đầu nguồn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao làm vỡ đê Liên Phô (xã Thọ Nguyên) và đê Căng Hạ (xã Thọ Trường). Do mưa lớn kéo dài cộng thêm đê sông Chu bị vỡ tràn vào làm toàn bộ lúa và hoa màu của xã Nam Giang nói riêng và phần lớn các xã trong huyện Thọ Xuân nói chung bị ngập lụt; hoa màu bị ngâm trong nước lâu ngày bị mất hết. Cuối năm 1954, đầu năm 1955, nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện. Trước tình hình cấp bách đó, Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” từ huyện đến xã, do đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện làm Trưởng ban, dưới xã do đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính xã làm Trưởng ban; đồng thời phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày, thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng gia đình, thôn xóm…

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, chi ủy chi bộ Đảng Nam Giang cùng với các tổ chức đoàn thể Mặt trận Liên Việt đã động viên nhân dân “lá lành đùm lá rách”, tích cực tăng gia sản xuất, chủ yếu là rau màu ngắn ngày.

 Với truyền thống cách mạng, tinh thần tương thân, tương ái, sự chỉ đạo sát sao của chi bộ, nạn đói từng bước được đẩy lùi, đời sống nhân dân ngày một ổn định.

Cùng với việc tích cực tăng gia sản xuất cứu đói…thời kỳ này nhân dân xã Nam Giang vinh dự được đón một đơn vị thông tin của Sư đoàn 330 về đóng quân trên địa bàn xã, đặc biệt là đón 5 thương binh gồm: ông Bùi Hưởng, ông Đặng Xuân Lộc, ông Nguyễn Văn Vinh, ông Nguyễn Văn Cối và ông Nguyễn Văn Dụng về làng chăm sóc, nuôi dưỡng theo chủ trương của Đảng và Chính phủ. Các anh bộ đội, thương binh được bà con đón nhận với tình cảm thắm thiết, chân tình; các đoàn thể quần chúng như thanh niên, phụ nữ đã tổ chức lễ kết nghĩa giữa hai đơn vị và tổ chức nhiều chương trình phối hợp hoạt động giao lưu thật thấm đượm tình quân dân trên mọi lĩnh vực. Tổ chức cho chị em tình nguyện xây dựng hạnh phúc gia đình với các anh thương binh.

Ngay sau hòa bình vừa lập lại, Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ủy ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sữa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thủy nông sông Chu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh ủy quyết định mở công trường tu sữa đập Bái Thượng và hệ thống thủy nông sông Chu. Để hoàn thành nhiệm vụ tỉnh đã huy động 22.000 dân công của các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỷ thuật, hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm và các loại vật liệu phục vụ công trường. Thọ Xuân là huyện sở tại, tỉnh điều động 5.000 dân công, mặc dù phải tập trung lực lượng tu sữa hệ thống kênh mương, đường giao thông nông thôn của xã và tham gia với lực lượng dân công của huyện đắp lại đoạn đê sông Chu bị vỡ (tháng 9/1954), Nam Giang vẫn cử hàng trăm lượt dân công tham gia công trường đập Bái Thượng. Các lực lượng tham gia lao động trên các công trường thi đua nhau làm việc, tăng năng suất vận chuyển, tăng định mức bình quân hàng ngày, vượt chỉ tiêu kế hoạch. Ngày 19 tháng 12 năm 1954, sau hơn 3 tháng lao động khẩn trương, việc sữa chữa đã đạt kết quả bước đầu, nước đã vào các hệ thống nông giang tưới tiêu cho đồng ruộng đang khô nẻ, kịp thời phục vụ cho vụ chiêm xuân năm 1955.

Song song với việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khắc phục hậu quả thiên tai, phát triển kinh tế, giao thông thủy lợi, Chi bộ và chính quyền rất quan tâm đến các hoạt động văn hóa - xã hội. Trường phổ thông cấp I xã Nam Giang được thực hiện chương trình giảng dạy phổ thông 10 năm. Thời kỳ này trường có 12 lớp với 600 học sinh. Từ năm 1954 đến năm 1959, thầy giáo Lê Viết Hòa quê xã Bắc Lương làm Hiệu trưởng. Từ năm 1960 - 1963, thầy Lê Đình Phiệt quê xã Hạnh Phúc làm Hiệu trưởng, thầy là nhà quản lý mẫu mực luôn được đồng nghiệp tin yêu, tín nhiệm, nhân dân kính trọng; hai năm liền thầy đạt chiến sĩ thi đua của ngành; năm học 1963 - 1964, thầy Lê Đình Thuật, quê xã Thọ Tân (Triệu Sơn ngày nay) làm Hiệu trưởng. Các thầy, cô giáo lúc đó bao gồm cả giáo viên dân lập và quốc lập. Năm 1960, lần đầu tiên trường được xây bằng gạch, mái ngói tại khu đồng Bài (khu trường chính bây giờ), nhưng vẫn không đủ phòng học, do vậy một số lớp phải đặt nhờ trong các nhà dân, đình và đền (khu I học ở nhà bà Mục Ngần; khu II đặt ở nhà bà Chỉ, ông Lý Chứ; khu III học ở đình Phong Lạc).

Tháng 9 năm 1959, theo Quyết định của UBND tỉnh, trường phổ thông cấp II xã Nam Giang được thành lập. Trường chỉ có 2 lớp gần 100 học sinh và 3 giáo viên do thầy Lê Viết Xiển người làng Phúc Như, xã Nam Giang phụ trách trường. Các thầy Phùng Gia Lộc, Lê Bá Nhì là những giáo viên đầu tiên của trường. Lớp học sinh đầu tiên đến từ 9 xã: Nam Giang, Thọ Lộc, Xuân Sơn, Xuân Phong, Tây Hồ, Xuân Quang, Xuân Khánh, Xuân Giang, Thọ Vực (bây giờ thuộc huyện Triệu Sơn). Song, do học sinh ít và cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học thiếu thốn, nên chỉ sau một năm trường phải sáp nhập với trường cấp II xã Bắc Lương.

Về công tác y tế: năm 1955, theo Chỉ thị số 05 liên tịch Bộ tài chính - Y tế ban hành hướng dẫn mỗi xã được thành lập một trạm y tế. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ và chính quyền địa phương, cuối năm 1955, trạm xá xã Nam Giang được thành lập gồm có 3 người, do ông Cao Như Ý - Y tá làm Trạm trưởng; ông Lê Cảnh Châu - vệ sinh viên và bà Lê Thị Luân, vệ sinh viên, làm công tác hộ sinh. Địa điểm Trạm xá đặt ở phía Bắc cầu Phúc Như. Trang thiết bị Y tế chưa có gì ngoài 2 chiếc panh và 1 chiếc kéo. Nhiệm vụ chủ yếu là truyên tuyền phòng bệnh sốt rét, đậu mùa, bệnh đau mắt đỏ, phòng bệnh tả và đỡ đẻ thông thường.

Ban văn hóa thông tin xã làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ. Phong trào văn hóa văn nghệ diễn ra sôi nổi, các làng đều có đội văn nghệ, với những tiết mục tự biên, tự diễn phê phán các thói hư, tật xấu do chế độ phong kiến để lại, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.

Để đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho đông đảo nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Ngay từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn đang tiếp diễn, Đảng và Chính phủ ta đã lãnh đạo đấu tranh thực hiện từng bước nhiệm vụ dân chủ: giảm tô, giảm tức... Ngay sau hòa bình lập lại một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên Đảng ta tiến hành là cải cách ruộng đất.

Thực hiện cuộc vận động cải cách ruộng đất của Đảng, đội quân công tác chính trị của huyện đã về các xã cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân chủ.

Đợt đầu (đợt thí điểm) tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc. Đợt 2, tiến hành ở các xã còn lại.

Nam Giang là một trong những xã tiến hành cải cách ruộng đất đợt 2. Rút kinh nghiệm các xã làm đợt đầu, đoàn cải cách về làm công tác tổ chức đưa ông Lộc lên làm Chủ tịch UBHC thay cho ông Sính đang làm Chủ tịch lâm thời, đồng thời thành lập đội cải cách của xã gồm 12 người, do ông Cần làm Đội trưởng, ông Trọng làm Đội phó. Chia mỗi xóm 1 người, cùng với đội quân công tác chính trị của huyện đã về từng xóm thực hiện 3 cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nhân dân. Lấy người nghèo làm trung tâm, nắm bắt một số cốt cán trong các thôn như: ông Lê Đình Tộ, ông Lê Văn Lương, ông Trịnh Xuân Đới, bà Lê Thị Bồ, bà Lê Thị Đởm, bà Lê Thị Xí… Với phương châm dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông, đánh đỗ giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột. Sau một thời gian “bắt rễ, sâu chuỗi”, lựa chọn cốt cán, phát động nhân dân đấu tranh tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất, nhà cửa, tài sản, dụng cụ lao động sản xuất của địa chủ cho nông dân.

Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở Nam Giang thắng lợi đã thực hiện được ước mơ ngàn đời (người cày có ruộng) của người dân, xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người, phân phối tư liệu sản xuất đồng đều cho nông dân. Tuy vậy, ở Nam Giang cũng như trình trạng chung của các địa phương khác đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm như quy định 5% tổng số hộ gia đình trong toàn xã là địa chủ. Một số gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bị quy lên địa chủ, gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng bị quy kết, đấu tố oan sai dẫn đến kết quả đau lòng. Tình hình đó đã làm cho nhân dân thiếu phấn khởi và không yên tâm sản xuất, gây ra mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân và làm cho không khí làng xóm có phần căng thẳng.

Trước tình nghiêm trọng đó, tháng 9 năm 1956, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm và đề ra chủ trương sữa sai.

Thực hiện chính sách sữa sai và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về cuộc vận động sữa sai trong cải cách ruộng đất. Được sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, chi bộ đảng và chính quyền xã Nam Giang đã thực hiện tốt công tác sữa sai, những người bị quy sai thành phần được sữa lại thành phần, được trả lại một phần tài sản và ruộng đất; một số đồng chí đảng viên được phục hồi, được trả lại đảng tịch. Ông Sính được trả lại chức Chủ tịch UBHC xã. Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố, nhân dân càng thêm tin tưởng trước tinh thần trách nhiệm của đảng, hăng hái đẩy mạnh sản xuất, an ninh chính trị xã hội ở Nam Giang được ổn định.

Tháng 10 năm 1956, Hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc (thuộc huyện Triệu Sơn hiện nay) xác định nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: “Thực hiện Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất…nhanh chóng ổn định tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làm thủy lợi, chống hạn mở rộng diện tích cây lúa, đưa nông dân vào tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước”(1)

Sau hội nghị huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hằng ngày có từ 3.500 - 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường; hàng trăm dân công xã Nam Giang, hết đợt này đến đợt khác có mặt trên công trường làm nhiệm vụ bồi đắp đê sông Chu hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch huyện giao. Cùng với việc lãnh đạo toàn dân tham gia làm thủy lợi, đắp đê, chi bộ và chính quyền tổ chức cho nhân dân vào tổ đổi công, mỗi tổ gồm nhiều gia đình hợp tác, tương trợ nhau trong sản xuất trên cơ sở tự nguyện tham gia. Từ các tổ đổi công ban đầu, đến giữa năm 1958, phong trào tổ đổi công đã lan rộng ra toàn xã, bước đầu đưa người dân Nam Giang làm quen với mô hình làm ăn tập thể. Đây là mầm mống đầu tiên tạo cơ sở để tiến lên hình thức hợp tác cao hơn - hình thức tố chức hợp tác xã.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân khóa V (5/1958): “Cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẽ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao, hợp tác hóa phải gắn liền với cơ giới hóa và thủy lợi hóa. Đối với thương nghiệp, Đại hội đề ra chủ trương thành lập các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, thành lập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công”…Chi bộ Đảng và chính quyền xã Nam Giang thành lập Ban chỉ đạo vận động nông dân vào hợp tác xã, tổ chức cho nông dân học tập điều lệ hợp tác xã và chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hợp tác hóa nông nghiệp. Về việc thực hiện, chi bộ giao các đồng chí cán bộ, đảng viên là đầu tầu đi trước, đồng thời vận động những quần chúng tiên tiến làm nòng cốt viết đơn vào hợp tác xã để làm gương cho mọi người. Do làm tốt công tác vận động quần chúng, đến đầu năm 1959 xã Nam Giang đã thành lập 7 HTX Nông nghiệp bậc thấp đó là:

- HTX Phúc Thắng do ông Nguyễn Xuân Luận làm Chủ nhiệm;

- HTX Lưỡng Long do ông Phùng Đình Loa làm Chủ nhiệm, ông Lê Văn Thể làm phó Chủ nhiệm;

- HTX Xuân Tiên do ông Đào Long làm Chủ nhiệm;

- HTX Phong Phú do ông Lê Đình Vượng làm Chủ nhiệm;

- HTX Thành Công do ông Phạm Lê Đảng làm Chủ nhiệm;

- HTX Tân Thành do ông Lê Công Lô làm Chủ nhiệm;

- HTX Tân Tiến do ông Trịnh Xuân Bạn làm Chủ nhiệm.

Cơ chế quản lý của hợp tác xã bậc thấp là ruộng đất, trâu bò, nông cụ là sở hữu của tư nhân, trích từ hoa lợi ruộng đất 20% trở lên, còn lại chia đều cho ngày công lao động.

Lúc đầu mới có khoảng 80% số hộ nông dân vào hợp tác xã, nhưng do hợp tác được mùa nhiều vụ liên tiếp, nên đời sống xã viên được nâng cao. Đến năm 1962, gần 100% số hộ nông dân ở Nam Giang làm đơn vào hợp tác xã nông nghiệp.

Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, cấp ủy và chính quyền xã Nam Giang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thành lập hai hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng.

Hợp tác xã mua bán nguồn vốn do xã viên đóng góp, lúc mới thành lập do ông Lê Trọng Cằm làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã mua bán ra đời phục vụ các mặt hàng nhu yếu phẩm, thực phẩm; đồng thời thu mua các mặt hàng nông sản của nông dân nhập cho Nhà nước, nhân dân trong xã không phải đi chợ xa, tránh được tư thương ép giá mua bán. Hoạt động của Hợp tác xã mua bán đã mang lại nhiều lợi ích cho tập thể và người nông dân.

 Cùng với Hợp tác xã mua bán, Hợp tác xã tín dụng xã Nam Giang cũng được thành lập, do ông Lê Đình Tớn (làng Phong Lạc 1) làm Chủ nhiệm đầu tiên. Sự ra đời của Hợp tác xã tín dụng đã thu hút được đồng tiền nhàn rỗi trong nhân dân đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản. Do quản lý đồng vốn chặt chẽ, nên hợp tác xã và xã viên đều có lãi, nhân dân tin tưởng, phấn khởi gửi tiền vào tiết kiệm ngày một nhiều hơn.

Cũng trong thời gian này, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự(1) đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân, Ủy ban hành chính xã Nam Giang đã tiến hành đợt tuyên truyền, học tập sâu rộng trong chi bộ và quần chúng nhân dân, làm cho mọi người nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Qua đợt học tập, ý thức quốc phòng của nhân dân được nâng lên, đặc biệt là thanh niên và học sinh; sau đợt học tập này 100% đoàn viên, thanh niên trong xã đăng ký tham gia khám sức khỏe. Đợt tuyển quân thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đầu tiên, xã Nam Giang có các ông Lê Viết Trọn (làng Phú Gia), ông Chiêu (làng Kim Bảng), ông Lê Viết Hạt (xóm Phong Cốc, làng Phong Lạc), ông Lê Đình Giáp (xóm Phong Thịnh, làng Phong Lạc) lên đường nhập ngũ.

Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao cũng được xã đầu tư quan tâm. Vào các ngày lễ Quốc khánh, tết Trung thu hoặc những ngày tổ chức các sự kiện của làng…đều tổ chức liên hoan văn nghệ, giao lưu với đơn vị bộ đội thông tin Sư đoàn 330, với những tiết mục ca, múa hát truyền thống hoặc tự biên được các ca sĩ không chuyên của các làng, của các anh bộ đội biểu diễn, thể hiện cuộc sống mới đang ngày một thay da, đổi thịt trên quê hương. Phong trào văn hóa - văn nghệ được huyện đánh giá là một trong những lá cờ đầu của huyện. Thời kỳ này đội văn nghệ của xã không chỉ biểu diễn phục vụ bà con trong xã mà còn đi lưu diễn nhiều nơi trong và ngoài huyện.

 Song hành cùng với những hoạt động văn hóa, văn nghệ là phong trào thể dục thể thao. Có thể nói, hoạt động thể dục thể thao ở Nam Giang là một trong những điểm sáng của huyện, cứ chiều về các sân phơi của các hợp tác xã lại sôi nổi thi đấu bóng chuyền, hoặc bóng đá; đặc biệt vào dịp ngày lễ kỷ niệm quốc khánh (2/9) xã lại tổ chức thi đấu bóng đá, bóng chuyền giữa các làng với nhau, giữa các đội bóng của xã với đội bóng của đơn vị bộ đội đóng quân trên địa xã, tạo nên một không khí thật vui tươi, phấn khởi ở địa phương.

Thực hiện đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9 năm 1960) và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ V (tháng 3 năm 1961). Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân, chi bộ và chính quyền xã Nam Giang đã tổ chức nhiều hoạt động thi đua sôi nổi nhằm thực hiện 3 cuộc vận động cách mạng: “Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa”, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Nhận thức đúng đắn về 3 cuộc vận động cách mạng của Đảng. Đảng bộ và chính quyền xã Nam Giang chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng, nâng cao nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước.

Để tiếp thu khoa khoa học kỹ thuật phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Nam Giang đã cử nhiều người đi học trường bổ túc công nông, bổ túc văn hóa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trẻ. Đồng thời tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai 3 cuộc vận động của tỉnh “Ba xây, Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp tác xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi”.

Thực hiện cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp tác xã”, đầu năm 1963, Ủy ban hành chính xã Nam Giang tiến hành sắp xếp tổ chức lại mô hình hợp tác xã, đưa các hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao (mỗi khu là một hợp tác xã, công hữu hóa ruộng vườn, trâu bò, nông cụ), thực hiện phân phối theo mức lao động, với tinh thần làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; kiện toàn lại Ban quản trị, Ban chủ nhiệm hợp tác xã ở 3 khu đó là:

- Hợp tác xã Phúc Thắng (Khu I) do ông Nguyễn Xuân làm Chủ nhiệm;

- Hợp tác xã Phong Phú (Khu II) do ông Lê Đình Tùy làm Chủ nhiệm;

 - Hợp tác xã Tân Tiến và Hợp tác xã Tân Thành sát nhập lại gọi là HTX Thống Nhất, đến năm 1964 đổi tên là Hợp tác xã Hồng Lạc (Khu III), Ban chủ nhiệm gồm có 3 người do ông Lê Công Phong (Phong Lạc 2) làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Thành Kế (Phong Lạc 1) và ông Lê Công Lô (Phong Lạc 3) làm Phó Chủ nhiệm.

Việc xây dựng hợp tác xã bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội mới ở nông thôn Nam Giang. Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao vào đồng ruộng như: lúa Quyết Tâm, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Nam Ninh thay thế toàn bộ giống cũ như: lúa Mùa đỏ, lúa Gié, lúa Hiên… đã thoái hóa, năng suất thấp; đồng thời công tác thủy lợi được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, hệ thông kênh mương tưới tiêu nước cho đồng ruộng được đảm bảo, cùng với các chiến dịch làm phân bắc, phân xanh, phân bùn, bèo hoa dâu được phát động rộng rãi trong toàn dân. Các phương tiện lao động sản xuất cũng được cải tiến như: xe kiến an, cày 51, cào cỏ Nghệ An thay thế công cụ lao động lạc hậu kém năng suất; xe cải tiến, xe bò đã giải phóng đôi vai người nông dân…Nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp, năm 1962, cả 3 vụ lúa và màu ở Nam Giang đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của người dân Nam Giang đạt trên 300kg/đầu người/năm. Đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hóa, tinh thần đang dần được nâng cao, quan hệ sản xuất mới cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ, tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tháng 12 năm 1962, Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII, Đại hội đề ra những nhiệm vụ trọng tâm của những năm tiếp theo là: “Xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ cơ sở chức Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng ủy xã và mở rộng các lớp đối tượng kết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên”(1).

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, đầu năm 1963, Chi bộ Đảng xã Nam Giang được chuyển thành Đảng bộ. Đảng bộ có 94 đảng viên, sinh hoạt trong 7 chi bộ gồm: Chi bộ Phúc Thượng, Phúc Hạ; Chi bộ Phú Gia, Phúc Như, Cao Phong, Kim Bảng, Phong Lạc 1, Phong Lạc 2. Đồng chí Lê Trọng Thung (Phú Gia) đang giữ chức Bí thư chi bộ xã Nam Giang (1960 - 1962) tiếp tục được bầu làm Bí thư BCH Đảng bộ đầu tiên của xã.

Đảng ủy ra đời, đánh dấu một bước phát triển của tổ chức Đảng vững mạnh trên quê hương Nam Giang. Ngay sau khi thành lập, Đảng ủy đã tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng xuống từng chi bộ, nâng cao chất lượng đạo đức đảng viên, củng cố kiện toàn các tổ chức đoàn thể.

Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965), thực hiện Nghị quyết đại hội huyện Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VIII tháng 3 năm 1963. Về nông nghiệp, Đảng bộ thường xuyên cử cán bộ các hợp tác xã, các đội trưởng đội sản xuất đi học bồi dưỡng về chính trị và chuyên môn; chỉ đạo các hợp tác xã thực hiện 3 khoán: khoán cho nhóm, khoán công việc và khoán công điểm.

Trong những năm 1963 - 1964, thực hiện cuộc vận động cải tiến hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa Hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Thời kỳ này, Nam Giang có đội máy kéo, máy cày của huyện đóng trên địa bàn xã để phục vụ phát trển sản xuất nông nghiệp trong khu vực. Sự xuất hiện của đội máy cày, máy kéo đã góp phần kiến tạo lại bờ vùng, bờ thửa, cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa nông nghiệp đi vào sản xuất lớn, đưa vụ đông trở thành nổi tiếng trên địa bàn Nam Giang “Khoai Phong Lạc, Bạc Ngân hàng”; đưa giống lúa mới có năng suất cao vào sản xuất (Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn), thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng vụ đông, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng… nên bình quân lương thực đầu người trong 2 năm 1964 - 1965 ở Nam Giang lên 350kg/năm. HTX Tân Thành (Phong Lạc 2) là hợp tác đạt hơn 5 tấn thóc/ha đầu tiên của Nam Giang. Hằng năm hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch lương thực, thực phẩm Nhà nước giao.

Từ 1962 - 1964, thực hiện nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”, Đảng bộ Thọ Xuân đã phát động nhân dân ở một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện và một số huyện miền núi Thường Xuân, Ngọc Lặc”(1).

Là một trong những xã đông dân của huyện, thực hiện chủ trương của tỉnh, năm 1963 Nam Giang có khoảng 15 hộ ở hai thôn Phúc Thượng, Phúc Hạ định cư đến khu vực Đồng Đình, làng Bích Phương, xã Xuân Đài, nay là xã Xuân Sơn.

Để bà con định cư sớm ổn định cuộc sống, yên tâm lập nghiệp nơi đất mới, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền xã Nam Giang, các hợp tác xã giúp bà con vận chuyển nhà cửa, dụng cụ sản xuất, cấp một năm lương thực, giống cây trồng, phân bón…đến nơi ở mới lại được chính quyền và nhân dân địa phương sở tại giúp đỡ tận tình, do đó bà con rất yên tâm phấn khởi, tích cực phấn đấu xây dựng quê hương mới.

Giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), tháng 3 năm 1964, tổng thống Mỹ Giôn - Xơn phê chuẩn kế hoạch Đê-Xô-tô dùng tàu khu trục Mỹ tuần tiểu ở Vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn sự tiếp tế đường biển của ta, yểm trợ cho hoạt động của các tàu biệt kích Ngụy vây bắt ngư dân đánh cá để khai thác tin tức tình báo. Trung tuần tháng 4, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã vạch kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu đánh phá, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm.

Nhận định tình hình địch, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng họp phê chuẩn tình hình nhiệm vụ và hướng dẫn những việc làm gấp của công tác phòng không nhân dân.

Ngày 14 tháng 3 năm 1964, Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa quyết định thành lập hệ thống tổ chức, chỉ đạo phòng không nhân dân ở các cấp do chủ tịch Ủy ban hành chính và thủ trưởng cơ quan các ban ngành làm Chủ nhiệm. Thành phần Ban phòng không các cấp gồm có Quân sự, Công an, Y tế và đại diện các ban, ngành đoàn thể. Ban Phòng không nhân dân xã Nam Giang được thành lập, đồng chí Đào Văn Long, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, làm Trưởng ban, các đồng chí Trịnh Xuân Đới, xã đội trưởng; đồng chí Lê Quý Đôn, Trưởng trạm y tế xã và đồng chí phụ trách công an xã là ban viên.

Ban phòng không nhân dân có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức nhân dân đào hầm hố cá nhân, giao thông hào ở những nơi công cộng và đường làng, ngõ xóm trong toàn xã và từng gia đình, đảm bảo an toàn tài sản, tính mạng cho nhân dân.

Trước những âm mưu điên cuồng mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta của đế quốc Mỹ. Ngày 27 và 28 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Đây là Hội nghị “Diên Hồng” ở thời đại Hồ Chí Minh. Tại hội nghị này, Bác đã khẳng định ý chí sắc đá của nhân dân ta: “Nếu chúng liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì chúng nhất định sẽ thất bại”. Bác khẩn thiết kêu gọi quân và dân miền Bắc phải nêu cao chí khí phấn đấu hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, củng cố quốc phòng, luôn luôn cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hết lòng, hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam, “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”([13]).

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 4 năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy ra chỉ thị: “Hãy sẵn sàng và kiên quyết đập tan mọi hành động phá hoại, khiêu khích của đế quốc Mỹ và bè lũ tai sai, kịp thời ngăn chặn mọi hành động chống phá của bọn phản cách mạng”([14]).

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện và các phòng ban chức năng, Đảng bộ và nhân dân Nam Giang đã chuyển mọi hoạt động sản xuất từ thời bình sang thời chiến. Trước hết tổ chức cho nhân dân, từng gia đình đào hầm trú ẩn, đào hầm hào ở những nơi công cộng, lập các trạm gác báo động phòng không, tích cực bảo mật, phòng gian, xây dựng lực lượng dân quân, đăng ký quân dự bị, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu và thủ đoạn đánh phá, phá hoại của kẻ thù.

 Mười năm xây dựng trong hòa bình (1954 - 1964), Chi bộ, Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn gian khổ, đạt được nhiều kết quả trên lĩnh vực khôi phục kính tế (1955 - 1957), cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961 - 1965) đã làm cho đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội trên quê hương Nam Giang “thay da đổi thịt”, nền quốc phòng toàn dân được củng cố và có bước phát triển đáp ứng yêu cầu thời bình, chuẩn bị cho thời chiến đánh thắng kẻ thù.

Tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, truyền thống cần cù trong lao động sản xuất, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang vững bước đi vào thời kỳ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và bảo vệ vững chắc địa phương, đồng thời cùng với Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân làm tròn trách nhiệm chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, cùng đồng bào, chiến sĩ miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước.

II. NHÂN DÂN NAM GIANG VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU VÀ CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1965 - 1975)

Bước vào năm 1965, sau sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, mở đầu âm mưu leo thang chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa hàng trăm lượt chiếc máy bay, hàng chục lượt tàu chiến ném bom bắn phá cầu Đò Lèn, cầu Hàm Rồng, bến phà Ghép... trên Quốc lộ 1A, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Với tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, quân và dân tỉnh ta đã mưu trí, dũng cảm đánh trả quân xâm lược Mỹ và giành thắng lợi oanh liệt. Trong hai ngày 47 máy bay hiện đại “Thần sấm, con ma” Mỹ bị bắn rơi cùng nhiều giặc lái bị tiêu diệt, bị bắt sống.

Trước âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ IX (đầu năm 1965), Đảng bộ và chính quyền xã Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị thế trận toàn dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng làng xã chiến đấu, lập trạm báo động phòng không sơ tán, bảo đảm trật tự an ninh, củng cố xây dựng lực lượng dân quân, mỗi hợp tác xã tổ chức một đại đội dân quân vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng thời sẵn sàng làm nhiệm vụ ứng cứu khắc phục hậu quả bom đạn địch. Thành lập một trung đội dân quân trực chiến gồm có 34 người thường xuyên trực chiến 24/24 giờ, bảo vệ trọng điểm cầu Phúc Như, bảo vệ đường 47 B trên địa bàn xã; được trang bị vũ khí và huấn luyện kỹ thuật bắn máy bay bay thấp. Đây là lực lượng thường trực sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở địa phương và sẵn sàng đi tăng cường cho các địa bàn trọng điểm Bái Thượng, Bàn Thạch khi cấp trên yêu cầu. Các đại đội, trung đội dân quân thường xuyên được tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chuyển mọi hoạt động của địa phương từ thời bình sang thời chiến, sơ tán trường học, kho tàng vào địa điểm an toàn. Kiểm tra hệ thống hầm hào trú ẩn ở trường học, chợ và những nơi công cộng đông người…

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công tác thủy lợi, học tập biện pháp thâm canh, tăng vụ của Hợp tác xã Thắng Lợi (Xuân Thành) và Đông Phương Hồng (Thọ Hải), phấn đấu đạt 5 tấn thóc/ha/năm; chăm sóc cây màu lương thực như: ngô, khoai; cây công nghiệp thực phẩm như: Lạc, vừng, đậu các loại…thực hiện tốt lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”.

Thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự thời chiến(1), đợt đầu năm 1965, Nam Giang có 35 thanh niên gia nhập quân đội, tình nguyện vào Nam chiến đấu, trong đó có 10 người tái ngũ.

Thực hiện quyết định của Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc mở công trường 101 xây dựng sân bay Sao Vàng, sân bay quân sự trên địa bàn Thọ Xuân. Toàn tỉnh đã huy động 10.000 thanh niên xung phong, huyện nhỏ 2 đại đội, huyện lớn 3 đại đội. Riêng Thọ Xuân 4 đại đội cùng 500 công nhân lái máy ủi và ô tô vận tải.

Để phục vụ thi công tỉnh còn giao cho huyện Thọ Xuân huy động 3.000 người khai thác, vận chuyển 5.000m3 cát vàng, thành lập công trường khai thác đá ở núi Trẩu, huy động 600 công nhân, một máy khoan đá, một máy xay đá, cung cấp 5.000m3 đá từ 2 ly đến 6 ly cho công trường.

Thực hiện quyết định của Chính phủ và nhiệm vụ tỉnh giao cho huyện, xã Nam Giang huy động hàng trăm lượt người tham gia tại công trường 101 và hơn 40 người cùng xe trâu bò tham gia chở cát từ bãi cát Thọ Hải về phục vụ công trường thi công… Hơn một năm cùng với các đơn vị bạn lao động khẩn trương, đến tháng 6 năm 1966 thì hoàn thành nhiệm vụ. Các lực lượng của Nam Giang tham gia trên các công trường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huyện giao, được Ủy ban hành chính huyện biểu dương, khen thưởng.

Sau khi tổ chức một trận đánh lớn vào Lèn, Hàm Rồng, phà Ghép trong 2 ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, bị thất bại, đế quốc Mỹ phải tạm dừng đánh phá Thanh Hóa một thời gian ngắn, cuối tháng 4 năm 1965, chúng bắt đầu đánh phá trở lại Thanh Hóa quyết liệt hơn.

Ngày 27 tháng 4 năm 1965, máy bay giặc Mỹ bắn 18 quả Rốc két xướng khu vực Sao Vàng, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân trên đất Thọ Xuân. Tiếp đó, chỉ trong vòng hơn một tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại giặc Mỹ đã dội bom xuống nhiều khu vực trọng điểm kinh tế, giao thông vận tải, mục tiêu quân sự trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Tháng 5 năm 1965, máy bay giặc Mỹ ném bom bắn phá đê Xuân Tín làm chết 22 người. Tiếp đó là những trận đánh phá vào những nơi tập trung đông người như: chợ Đường (Tứ Trụ) xã Thọ Diên, nhà thờ Hữu Lễ (Thọ Xương), phố Bái Thượng xã Xuân Bái…

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết cấp trên, ngày 18 tháng 6 năm 1965, Huyện ủy Thọ Xuân ra nghị quyết về chuyển hướng lãnh đạo trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra ba nhiệm vụ trọng tâm là:

- Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa. Mục tiêu toàn huyện đạt 5 tấn thóc/ha/năm. Duy trì và phát triển nhân rộng điển hình tiên tiến trên mặt trận sản xuất nông nghiệp.

- Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ mạnh để phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng ở địa phương, bảo vệ tính mạng tài sản của Nhà nước và nhân dân.

- Tuyên truyền giáo dục toàn dân thấm nhuần đường lối quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Triển khai thực hiện nghị quyết của Huyện ủy, Đảng bộ Nam Giang đã tổ chức học tập và quán triệt tinh thần nghị quyết đến từng đảng viên trong Đảng bộ, chủ nhiệm các hợp tác xã, trưởng các ban, ngành đoàn thể…

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp: Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã tập trung thâm canh tăng vụ, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật trong các khâu cơ bản như: thủy lợi, phân bón, giống, kiến thiết đồng ruộng… do vậy, sản lượng lương thực toàn xã ngày một tăng. Đi đôi với trồng trọt, chăn nuôi lợn có bước phát triển khá, đến cuối năm 1965, tỷ lệ đầu lợn tăng lên 2 con/ha gieo trồng… thành tích đó đã đưa ngày công lao động của xã viên được nâng cao, đời sống nhân dân trong xã ổn định, nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đóng góp cho Nhà nước luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

Lực lượng dân quân được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, được trang bị thêm súng máy cao xạ 12,7 ly, được huyện đội cử cán bộ về huấn luyện các thao tác kỹ thuật bắn máy bay bay thấp. Qua thời gian học tập trung đội dân quân trực chiến đã biết sử dụng thành thạo súng. Từ đây, trung đội dân quân trực chiến của xã có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bắn máy bay địch bảo vệ địa phương, đồng thời phối hợp với đơn vị dân quân trực chiến các xã Xuân Sơn, Bắc Lương, Tây Hồ chiến đấu bảo vệ trọng điểm nhà máy thủy điện Bàn Thạch, bảo vệ đoạn đường 47 qua xã; sẵn sàng chi viện đi chiến đấu ở các trọng điểm khác trong huyện khi cấp trên yêu cầu.

Năm 1966, địch đánh phá ngày một ác liệt vào những trọng điểm trên đất Thọ Xuân và đánh bừa bãi vào các khu dân cư, điển hình là trận oanh tạc vào Hợp tác xã Đông Xuân (Xuân Khánh), lúc 11 giờ 30 phút ngày 23 tháng 4 năm 1966, vào lúc đang nghỉ trưa thì 3 chiếc máy bay F4H từ hướng Đông Nam bay tới, lượn một vòng rồi nhào xuống ném 18 quả bom, bắn 9 quả đạn Rốc két và hai loạt đạn 20 ly, làm chết 31 người (trong có 2 cụ già, 20 trẻ em, 9 phụ nữ), có gia đình chết 4 em bé, có em mới 2 tuổi bị mảnh bom cắt ngang rốn…khoảng 40 ngày sau, khi nhân dân mới đi làm đồng về, chúng lại cho 2 máy bay đến ném bom, làm chết và bị thương 29 người. Tội ác tày trời này càng nhân lên gấp bội, lòng căm thù của mọi người dân đối với đế quốc Mỹ xâm lược.

Trước tình hình đó, Đảng bộ xã Nam Giang đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Đảng viên và quần chúng nâng cao nhận thức về âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, gia cố hầm hào trú ẩn, coi hầm là nhà, nhằm hạn chế thương vong đến mức thấp nhất nếu máy bay địch ném bom bắn phá vào xã. Củng cố lực lượng dân quân, nêu cao vai trò nòng cốt xung kích trên các mặt trận lao động sản xuất ở địa phương.

Càng thua đau, thủ đoạn đánh phá của địch càng liều lĩnh và trắng trợn hơn, bất chấp mọi sự lên án, phản đối của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Năm 1967, đế quốc Mỹ đánh vào khu vực đông dân cư nhiều hơn. Đối với Thọ Xuân, chúng cũng không trừ một thủ đoạn nào, một trong những tội ác tày trời đó là: Chiều ngày 22 tháng 7 năm 1967, lợi dụng thời tiết sấu, trời mưa nhỏ, địch cho một tốp máy bay từ hướng Đông Nam bay qua vùng Thiệu Hóa vào đánh lén Nhà máy điện Bàn Thạch, bị trận địa cao xạ phía Bắc nhà máy nổ súng đánh trả không cho chúng ném bom bắn phá mục tiêu. Không đạt được mục đích, máy bay Mỹ liền chếch đầu về hướng Sao Vàng ném bom, làm 16 người dân Hợp tác xã Thống Nhất (Xuân Quang) đang làm cỏ lúa trên đồng bị chết và đê chi giang 8 bị hỏng. Để khắc phục hậu quả bom đạn địch, huyện đã huy động lực lượng dân quân các xã, trong đó có trung đội dân quân xã Nam Giang tham gia đắp đê, chỉ trong một thời gian ngắn đã hàn khẩu được đoạn đê bị vỡ, cứu được hàng trăm ha màu của nhân dân.

Căm thù lũ giặc trời đến bắn phá quê hương, ngày 9 tháng 9 năm 1967, tổ dân quân trực chiến trận địa pháo phòng không 12 ly 7 bảo vệ cầu Phúc Như gồm 7 đồng chí dân quân xã Nam Giang và 4 đồng chí dân quân xã Bắc Lương(1), do đồng chí Bùi Văn Hưởng - Xã đội phó chỉ huy đã độc lập chiến đấu bắn rơi 1 máy bay giặc Mỹ.

Hôm đó, khoảng 15 giờ chiều trời mưa nhẹ, một chiếc máy bay từ hướng Tây bay đến vùng Sao Vàng liền bị lực lượng phòng không tại đây nổ súng, hai chiếc đi về hướng Tây Nam, một chiếc A4 tách khỏi đội hình, lợi dụng thời tiết xấu lao xuống ném bom đánh phá cầu Phúc Như.

Với tinh thần cánh giác cao độ, tổ trực chiến đã sớm phát hiện mục tiêu, kịp thời nổ súng chính xác, chiếc máy bay bốc cháy và lao ra biển, xác nó rơi xuống bên ngoài Lạch Trường([15]). Bom nổ gần cách trận địa chừng 25m làm một số đồng chí bị mảnh bom và đất đá bắn vào bị thương.

Sau trận đánh, các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện, Ban CHQS huyện Thọ Xuân và các ban, ngành Huyện ủy, Ủy ban đến thăm hỏi, động viên và tặng quà chúc mừng. Thắng lợi đã có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần thi đua chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong các đơn vị dân quân toàn huyện.

Ngày 2 tháng 10 năm 1967, huyện đã tổ chức hội nghị biểu dương dân quân tự vệ gương mẫu toàn huyện, tổ dân quân trực chiến xã Nam Giang và Bắc Lương bảo vệ cầu Phúc Như được biểu dương, khen thưởng và cử đại biểu đi dự Đại hội biểu dương các đơn vị bắn máy bay giỏi toàn quân khu. Được Bộ Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn tặng Bằng khen và thủ tướng Chính phủ tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba([16]).

Cay cú vì thất bại, ngày 21 và 22 tháng 8 năm 1968, máy bay địch liên tiếp đánh phá Âu Phong Lạc (Nam Giang), Nhà máy thủy điện Bàn Thạch (Xuân Quang) và nhiều nơi khác, làm công trình bị hư hỏng nặng, làm mất nguồn nước tưới tiêu cho 6 ngàn ha lúa trong tỉnh đang thời kỳ trổ bông, huyện huy động hàng ngàn lao động, chủ yếu là lực lượng dân quân. Để hoàn thành nhiệm vụ huyện giao, Nam Giang đã huy động toàn bộ 3 đại đội dân quân và nhân dân trong xã cùng với các đơn vị bạn ra công trường, làm việc không quản ngày đêm, bom đạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huyện giao. Sáng ngày 02 tháng 9 năm 1968, Âu Phong Lạc kịp thời đưa nước tưới cho những cánh đồng đang khô hạn. Ngoài ra, dân quân và thanh niên Nam Giang còn tham gia san lấp hố bom ở sân bay Sao Vàng, Quốc lộ 47 đoạn qua Thọ Xuân, đê nông giang Bàn Thạch, đê sông Chu với số lượng hàng ngàn ngày công.

Về công tác phục vụ chiến đấu và bảo đảm giao thông: Các đơn vị dân quân của các hợp tác xã vừa là lực lượng nòng cốt trong sản xuất vừa là lực lượng tiên phong trong công tác phục vụ chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ ứng cứu khắc phục hậu quả các trận ném bom của giặc Mỹ. Có lần máy bay giặc Mỹ ném bom trúng đường, lực lượng dân quân trong xã đã kịp thời cứu và giải phóng được 2 xe đạn pháo, chỉ trong vòng một đêm đã khắc phục xong đường để các đoàn xe tiếp tục đi ra tiền tuyến.

Khi cầu Phúc Như bị máy bay ném sập, nhân dân trong xã không những đóng góp công sức san lấp hố bom mà còn ủng hộ hơn 500 cây gỗ xoan, hàng ngàn cây tre để khắc phục cầu, bảo đảm giao thông trên địa bàn xã liên tục thông suốt.

Trên địa bàn xã có các trận địa trực chiến của bộ đội và dân quân, xã đã thành lập một đội tiếp tế, động viên thăm hỏi kịp thời; tổ chức lực lượng đi tham gia đào đắp công sự cho các trận địa pháo, Ra đa của bộ đội ở sân bay Sao Vàng và của địa phương, san lấp hố bom trên trục đường 47 với hàng ngàn ngày công…

Thành lập một đội cứu thương gồm 15 người, chia làm 3 tổ kịp thời cứu chữa người bị thương và vận chuyển những người bị thương nặng lên tuyến trên.

Xã đã dành 3 khu kho HTX và hàng trăm gia đình đã nhường nhà ở cho các đơn vị quân đội Sư đoàn 308, 330 về nghỉ ngơi và luyện tập; các cơ quan Tỉnh đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Liên hiệp công đoàn tỉnh sơ tán về làm việc. Trong đó, Tỉnh đoàn Thanh Hóa ở Phong Lạc 3, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh ở Phong Lạc 1, Phong Lạc 2… Đặc biệt là từ năm 1968, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nam Giang được đón các thương binh thuộc Đoàn an dưỡng 585 về an dưỡng tại địa phương; Toàn xã có 120 gia đình đã nhường nhà ở làm kho chứa lương thực sơ tán của Nhà nước trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt của máy bay giặc Mỹ.

Trên mặt trận sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi: Chiến tranh xảy ra ngày một ác liệt, chiến trường càng đánh mạnh, thắng lớn thì đòi hỏi sự chi viện sức người, sức của ngày một nhiều, đa số thanh niên trai trẻ là lên đường ra trận trực tiếp cầm súng chiến đấu với quân thù, hoặc đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, vận chuyển hàng chi viện ở các chiến trường B, C, K. Số ở lại hậu phương phần lớn là tuổi trung niên thì tham gia lực lượng dân quân vừa vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu…Lực lượng lao động chính chỉ còn lại người già, phụ nữ và trẻ em, bình quân mỗi lao động phải đảm nhận hàng mẫu ruộng.

Từ thực tế đó, Đảng bộ đã khơi dậy các phong trào cách mạng như: “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ, “Phụ lão mẫu mực” của Mặt trận Tổ quốc. Lấy đảng viên làm nòng cốt cho mọi phong trào cách mạng ở địa phương. Phát động phong trào “Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”; các hợp tác xã tăng cường khoán việc, khoán hộ… phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 10 tấn khoai lang, 2 con lợn trên một ha... Nhờ làm tốt công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, tích cực chăm bón các loại cây trồng, do vậy sản lượng lương thực của xã Nam Giang từ 750 tấn (năm 1965) lên 1.500 tấn (1968). Đàn lợn từ 1.200 con (1965) lên 2.000 con (năm 1968)… Từ năm 1965 đến năm 1967, Nam Giang luôn hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước.

Công tác tuyển quân chi viện chiến trường luôn được Đảng bộ quan tâm và xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của địa phương, vì vậy Đảng bộ luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, động viên con em mình lên đường tòng quân giết giặc, đồng thời làm tốt các công tác chính sách hậu phương quân đội, tổ chức thăm hỏi các gia đình có con em đang chiến đấu ở chiến trường xa, các gia đình thương binh, liệt sĩ để làm yên lòng những người ra đi… Do đó, nhiệm vụ tuyển quân hằng năm Nam Giang luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Sau 5 năm về chung một mái trường cấp II Bắc Lương (từ năm 1960 - 1965, Trường cấp II Bắc Lương gồm các xã: Bắc Lương, Nam Giang, Xuân Quang, Tây Hồ, Xuân Phong, Thọ Lộc do thầy Dương Duy Chương, người Hà Nội làm Hiệu trưởng; các thầy, cô giáo phần lớn là người trong tỉnh). Chiến tranh xảy ra ác liệt, để đảm bảo an toàn cho thầy và trò, theo chủ trương của trên, trường cấp II Bắc Lương phải chia học sinh về lại các xã. Từ một trường lớn chia về các xã, thầy trò không thể mang theo vườn địa lý, vườn thí nghiệm, sân thể dục có cầu thăng bằng, xà đơn, xà kép…Cũng từ năm học 1965 - 1966, trường cấp II xã Nam Giang chính thức được thành lập theo Quyết định số 2922/QĐ-UBVX ngày 15 tháng 4 năm 1965 của Chủ tịch UBHC tỉnh Thanh Hóa. Do chiến tranh nên các lớp học của trường phải sơ tán vào các làng Cao Phong, Kim Bảng, Phúc Như. Những gia đình nhà cửa rộng rãi sẵn sàng cho trường mượn làm lớp học như: gia đình ông Khiêm, ông Lý Chứ, ông Lý Hanh ở làng Cao Phong…Khóa học đầu tiên của trường gồm có 3 lớp, 134 học sinh (1 lớp 5, 1 lớp 6 và 1 lớp 7) do thầy Hoàng Muôn quê huyện Triệu Sơn làm Hiệu trưởng, thầy Sang, cô Liên dạy sinh vật, thầy Ngưỡng dạy văn, thầy Ngọc dạy toán… Những tiết học thiếu kính hiển vi, thiếu phòng thí nghiệm nhưng bài giảng của các thầy, cô vẫn còn đọng mãi trong lòng bao thế hệ học trò. Những ngày ấy học sinh vừa đi học vừa tham gia sản xuất, vừa cùng với nhân dân phục vụ chiến đấu, đặc biệt có một số em học sinh nam lớp 7 lớn người, giữa năm học phải “vay tuổi” để lên đường nhập ngũ, trong số đó có người đã ngã xuống nơi chiến trường.

Khóa đầu tiên tốt nghiệp cấp II (1965-1966), Nam Giang có 22 học sinh thi đậu vào trường cấp III Thọ Xuân, họ đã trở thành những sĩ quan quân đội, kỹ sư, thầy giáo và đã có người lại là giáo viên của trường như thầy Thưởng, cô Hương.

Từ năm 1966 - 1968, trường có 6 lớp với trên 200 học sinh gồm 10 giáo viên, mỗi lớp học là một nhà dân, thầy trò phải đào hào đắp lũy che chắn xung quanh lán học để phòng tránh bom đạn địch. Mặc dù các lớp học phân tán nhưng nhà trường vẫn luôn thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, hằng năm số học sinh thi đỗ tốt nghiệp trung bình đạt 80-90%.

Trong những năm học đầu tiên, cả huyện có 2 học sinh đạt giải Nhất, Nhì môn văn cấp tỉnh, thì Nam Giang có em học sinh Đỗ Thị Hương, đạt giải Nhất. Đây là niềm tự hào không riêng gì của học sinh mà còn là niềm tự hào chung của thầy và trò trò trường cấp II Nam Giang. Và cũng từ thành tích học tập của em Hương, nhà trường đã phát động phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong nhà trường để thầy và trò phấn đấu dạy và học tốt hơn, đạt nhiều thành tích hơn trong những năm học tiếp theo.

Từ năm học 1970 - 1975, thầy Nguyễn Đức Năm, quê thị trấn Thọ Xuân làm Hiệu trưởng nhà trường, mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn, trang thiết bị, đồ dùng dạy học không bảo quản được do phải sơ tán nhiều nơi, hư hỏng nhiều, đời sống của giáo viên và học sinh vô cùng thiếu thốn, nhưng được nhân dân che chở đùm bọc, cấp ủy, chính quyền tạo mọi điều kiện, đội ngũ cán bộ, giáo viên vẫn say sưa nhiệt tình với việc dạy học. Nhà trường vẫn duy trì được phong trào dạy tốt, năm học 1970 - 1971, 1971- 1972 trường đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện.

Trường cấp I Nam Giang: Khi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra, thầy Phạm Lê Dực quê Nam Giang về làm Hiệu trưởng cấp I (1965 - 1969) thay cho thầy Lê Đình Thuật và từ năm 1969 - 1975, thầy Lê Viết Đào quê xã Thọ Lộc làm Hiệu trưởng. Thời kỳ này, mặc dù chiến tranh xảy ra ác liệt, các lớp học phải sơ tán vào học trong nhà dân, phải đào hầm hào trú ẩn, đắp lũy xung quanh lán học và ngụy trang cẩn thận, học sinh đi học phải đội mũ rơm, có thời kỳ phải đi học cả ban ngày và ban đêm… nhưng các em vẫn đi học chuyên cần, số học sinh đến lớp vẫn không thay đổi (12 lớp với khoảng 580 - 600 học sinh), số giáo viên dân lập đã chuyến toàn bộ sang quốc lập. Học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập, có nhiều em đã vượt khó vươn lên trong học tập và đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh như em Đỗ Thị Hai đạt giải Nhất tỉnh môn văn, Lê Thị Hà đạt giải Nhì tỉnh môn văn. Đó là thành tích rất đáng tự hào cho nhà trường nói riêng và quê hương Nam Giang nói chung.

Phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” được phát động thường xuyên trong các trường học, khối học. Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp hằng năm đều đạt từ 80 - 90%. Nhiều năm liền cả hai trường cấp I và cấp II của xã đều đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện, nhiều tổ chuyên môn đạt tổ lao động xã hội chủ nghĩa.

Phong trào bổ túc văn hóa cũng được đẩy mạnh theo phương châm “Vừa học, vừa làm”. Toàn xã mỗi năm mở được hai lớp bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, mỗi lớp có từ 30 - 40 người, phần lớn là thanh niên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở.

Đối với ngành học vỡ lòng: Trong gian chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Đảng bộ và chính quyền xã luôn chú trọng xây dựng các lớp học cho các cháu ở đội sản xuất đảm bảo phòng tránh an toàn. Các hợp tác xã đầu tư cơ sở vật chất dạy học và công điểm thích đáng cho giáo viên đứng lớp. Có hợp tác xã còn dành ra một lượng lương thực, thực phẩm nhất định để chăm sóc sức khỏe cho các cháu.

Trạm y tế xã thời kỳ này cũng được tăng cường chất lượng đội ngũ thầy thuốc, số giường bệnh cũng được tăng lên. Năm 1967, địch ném bom bắn phá cầu Phúc Như, do vậy trạm phải sơ tán vào làng Phúc Như ở nhà ông Vẻ. Trạm trưởng lúc này là ông Lê Đình Nguyện (y tá) người làng Đình (Phong Lạc); bà Lê Thị Hiên là nữ hộ sinh và bán thuốc. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là đỡ đẻ và truyên tuyền phòng bệnh. Việc sử dụng thuốc cổ truyền dân gian để chữa bệnh do hai cụ Phạm Duy Bật và cụ Phạm Câu Đà là người chuyên bắt mạch, chữa bệnh cho nhân dân trong và ngoài xã.

Ngoài cán bộ y tế trực tiếp phục vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế, mỗi đội sản xuất có một cán bộ vệ sinh phòng dịch. Trong chiến tranh, trạm đã tập trung vào việc chuẩn bị các túi thuốc phòng không nhân dân cấp phát cho từng cơ sở sản xuất, chiến đấu, đồng thời chuẩn bị nhiều phương tiện cấp cứu như: băng, gạc, cáng, võng… tập trung tại các địa điểm cần thiết.

Năm 1969, Trạm y tế lại chuyển về nhà ông Phú Tuần để hoạt động. Cán bộ trạm gồm ông Lê Quý Đôn (Y sĩ đa khoa) làm Trưởng trạm; cán bộ trạm có thêm bà Phạm Thị Tuất người làng Kim Bảng bán thuốc. Đến năm 1971, trạm được chuyển về Ải Ông Thường, thuộc khu vực thôn Cao Phong. Lúc này Trạm y tế được chính quyền xã đầu tư xây dựng một ngôi nhà ngói 5 phòng gồm: phòng sản, phòng dược, phòng bệnh nhân, phòng trực và phòng họp. Phòng sản phụ chỉ có một bàn gỗ để đỡ đẻ và hai chiếc giường cho bệnh nhân nằm điều trị. Cán bộ trạm lúc này có thêm bà Lê Thị Hồng dược tá bán thuốc. Công tác chăm sóc sức khỏe cho toàn dân đã có đội ngũ y tá thôn đến các đội sản xuất để phục vụ nhân dân và tuyên truyền phòng bệnh. Tại trạm và cơ sở chỉ có 3 đảng viên gồm ông Lê Quý Đôn, ông Lê Trọng Lự và bà Lê Thị Hiên phải sinh hoạt ghép với chi bộ hợp tác xã do ông Phạm Lê Tùng làm Bí thư Chi bộ.

Công tác vệ sinh phòng bệnh đảm bảo sức khỏe cho nhân dân thường xuyên được quan tâm như việc tiêm chúng phòng ngừa các bệnh dịch, bệnh xã hội; phát động nhân dân làm chuồng trại chăn nuôi gia súc gia cầm đảm bảo giữ vệ sinh chung; động viên và hướng dẫn mọi gia đình làm nhà tiêu hai ngăn, đường làng ngõ xóm thường xuyên quyét dọn sạch sẽ.

Hoạt động thông tin tuyên truyền phát triển mạnh mẽ, nhất là việc phát thanh tin tức qua hệ thống loa tăng âm truyền thanh của các hợp tác xã mở rộng ở hầu hết các gia đình. Các khẩu hiệu động viên chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được dựng lên ở nhiều nơi trong xã, trên các bức tường nhà của các gia đình ven đường. Đội văn nghệ thông tin của xã được thành lập, với những thanh niên có năng khiếu, giàu nhiệt tình. Đội luôn có những tiết mục mới phục vụ nhân dân trong lao động sản xuất hoặc trên các công trường làm thủy lợi, đắp đê phòng chống lụt bão... mang lại niềm lạc quan, phấn khởi, tin tưởng trong mọi tầng lớp nhân dân trong xã.

Chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ diễn ra ngày càng ác liệt, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh phải di chuyển xuống sinh hoạt dưới hầm và địa đạo.

Trung ương thấy trước cuộc leo thang chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên đã chủ trương giảm lực lượng dân cư trong khu vực chiến sự, lực lượng ở lại sản xuất và bám trụ sản xuất, chiến đấu phục vụ chiến đấu là người lớn, còn trẻ nhỏ và người già yếu phải có kế hoạch di chuyển ra các tỉnh phía Bắc, những nơi an toàn đề phòng chiến tranh kéo dài, tạo điều kiện cho các cháu học tập, đồng thời duy trì nguồn lực cho cuộc kháng chiến… Vì vậy, Trung ương cho khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình thực hiện “Kế hoạch K8”.

Cùng với các xã trong huyện Thọ Xuân, nhân dân Nam Giang đón nhận hơn 700 lượt cháu thiếu niên K8 về nuôi dưỡng, chăm sóc như con em ruột thịt của mình. Có gia đình mặc dù còn có những khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn nhận nuôi 2 cháu. Bên cạnh việc chăm sóc và nuôi dưỡng, nhân dân Nam Giang còn đóng góp thêm vật liệu tranh tre dựng lán làm phòng học cho các cháu. Các thầy cô giáo cấp I, cấp II trong xã còn kết hợp các thầy, cô từ Quảng Bình được điều động ra tích cực dạy dỗ các cháu, tạo mọi điều kiện cho các cháu yên tâm học tập.

Trước những thắng lợi to lớn của quân và dân ta ở hai miền Nam - Bắc trong năm 1968, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản, buộc chính quyền Mỹ phải ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và chấp nhận ngồi đàm phán với Chính phủ ta tại hội nghị Pari. Nhưng với bản chất của một tên đế quốc hiếu chiến bậc nhất thế giới, Mỹ không từ bỏ âm mưu xâm lược, tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”, một thủ đoạn “thay đổi màu da trên xác chết”. Âm mưu đó càng bộc lộ thế yếu, thế thất bại hoàn toàn không thể tránh khỏi của chúng.

Tranh thủ thời gian địch ngừng ném bom bắn phá miền Bắc, Đảng bộ xã Nam Giang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất và làm thủy lợi; củng cố cải tiến quản lý các hợp tác xã, đưa cách mạng khoa học kỹ thuật vào thâm canh. Cuối năm 1969, các HTX hình thành trại chăn nuôi tập thể, tổng số đàn lợn lên gần 1.500 con; quy hoạch thả nuôi cá ở ao hồ để tăng nguồn thực phẩm, cải thiện đời sống cho nhân dân; các tổ ngành nghề được hình thành như: tổ đóng gạch ngói, tổ nung vôi xây dựng các cơ sở hợp tác xã như: nhà kho, sân phơi, nhà làm phân bón ruộng ở các đội sản xuất và bán cho xã viên xây dựng nhà ở…

Năm 1970, thời tiết không thuận lợi, đầu năm rét đậm, rét hại, tiếp đến là sâu bệnh tàn phá hoa màu. Để đảm bảo sản lượng lương thực, Đảng bộ chỉ đạo hợp tác xã tích cực thâm canh cây lúa, đầu tư phân bón mở rộng diện tích trồng ngô và khoai lang đông, do vậy sản lượng lương thực năm 1970 vẫn bảo đảm chỉ tiêu, kế hoạch đề ra, đời sống nhân dân được cải thiện, nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đóng góp cho Nhà nước đầy đủ.

Thời kỳ này, hợp tác xã đã thực hiện triệt để chế độ 3 khoán, các hộ xã viên đã bỏ tiền mua trâu, bò, mua dụng cụ sản xuất như: xe bò kéo bánh sắt, cày bừa, cào cuốc, không còn cảnh đội sản xuất điều phối sức kéo, dụng cụ cày bừa …đảm bảo gieo cấy cho kịp thời vụ như trước, do vậy năng suất lao động và sản phẩm làm ra ngày một tăng cao.

Năm 1971, huyện Thọ Xuân vinh dự được Trung ương chọn làm điểm xây dựng cấp huyện tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương và của tỉnh, huyện tiến hành điều tra và quy hoạch tổng thể. Toàn huyện được chia làm 3 vùng kinh tế. Vùng 1: gồm 17 xã hữu ngạn sông Chu là vùng trọng điểm lúa, chăn nuôi lợn và cá. Vùng 2: gồm 9 xã vùng tả ngạn sông Chu, chủ yếu phát triển lúa, màu và chăn nuôi. Vùng 3: các xã vùng đồi chủ yếu phát triển chăn nuôi gia súc và trồng cây công nghiệp.

Nam Giang là một trong 17 xã vùng 1, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo phát triển trồng trọt và chăn nuôi, đưa năng suất lúa cả năm 1971 của xã lên hơn 6 tấn/ha; tổng đàn lợn lên 2.000 con, bình quân đạt 2,2 con/ha gieo trồng. Phong trào nuôi lợn lai kinh tế phát triển nhanh. Hợp tác xã đã quy hoạch giống, thức ăn, xây dựng chuồng trại. Đàn trâu, bò cũng phát triển, đảm bảo sức cày kéo kịp thời vụ gieo trồng.

Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ bị thua đau ở miền Nam đã trở lại ném bom bắn phá miền Bắc. Sau hơn 3 năm tạm yên tiếng bom đạn, nhân dân miền Bắc lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 với quy mô, tính chất còn ác liệt hơn cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.

Ngay từ những ngày cuối tháng 12 năm 1971, đế quốc Mỹ đã cho 13 máy bay đánh phá khu vực Hàm Rồng, bệnh viện đa khoa tỉnh, khu vực giữa hai xã Quảng Tân và Quảng Trạch (huyện Quảng Xương), giết hại 40 người, làm bị thương 60 người dân vô tội, phá hủy nhiều nhà cửa, hoa màu…đến đầu năm 1972, các hoạt động của địch đối với Thanh Hóa ngày một tăng.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hoạt động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ… Khẩn trương làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu và đưa các lực lượng vào tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất…”.

Thực hiện chỉ thị cấp trên, với kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Đảng bộ, chính quyền xã Nam Giang chuyển mọi hoạt động để phù hợp với tình hình chiến tranh, đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, củng cố hầm hào trú ẩn ở mỗi gia đình và nơi đông người qua lại. Lực lượng dân quân được củng cố đặc biệt là trung đội dân quân trực chiến sẵn sàng chiến đấu, được thoát ly sản xuất, tích cực luyện tập kỹ thuật bắn máy bay bay thấp; các trung đội dân quân khác ở các làng và Đại đội dân quân của hợp tác xã làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, làm nòng cốt trong sản xuất và các phong trào ở địa phương.

Vào lúc 3 giờ 30 phút sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, lần đầu tiên đế quốc Mỹ dùng siêu pháo đài bay B52 với sự yểm trợ của máy bay phản lực tập trung đánh phá Hàm Rồng, Sân bay Sao Vàng và làng Diên Hào, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, làm một số đoạn đường băng sân bay bị hỏng, làm chết 12 người, phá hủy 13 ngôi nhà và nhiều gia súc, gia cầm của nhân dân.

Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ kéo dài từ ngày 13/4/1972 đến ngày 15 tháng 1 năm 1973. Về thời gian thì ngắn hơn lần thứ nhất nhưng tính chất và mức độ đánh phá ác liệt hơn. Chúng đã sử dụng nhiều loại máy bay và bom đạn mới phát minh, đó là các loại máy bay B52, F111, tên lửa Tà Lốt, bom xuyên, bom la de, bom vô tuyến truyền hình, bom hóa học, bom TN cải tiến lần thứ 4...

Về thủ đoạn đánh phá cũng luôn thay đổi, hết sức xảo quyệt và tàn bạo. Các mục tiêu đánh phá được mở rộng ra các công trình dân sinh, kinh tế và khu dân cư… Xã Nam Giang là một địa phương có nhiều trọng điểm quan trọng: có cầu Phúc Như, hệ thống cống đầu mối (cống Phúc Như, cống Ba Gia, Phong Lạc) điều tiết nước cho các huyện Đông Nam tỉnh Thanh Hóa, Triệu Sơn, Đông Sơn, Nông Cống, Quảng Xương… kho dự trữ lương thực Quốc gia, trục đường giao thông 47 đi qua, gần đập thủy điện Bàn Thạch nên thường xuyên bị máy bay giặc Mỹ ném bom bắn phá. Dã man nhất là đêm 7 tháng 12 năm 1972, vào lúc nhân dân đang say xưa giấc ngũ sau một ngày lao động mệt nhọc thì có nhiều chiếc máy bay giặc Mỹ đến ném bom bắn phá xuống khu vực kho lương thực và 3 thôn Phúc Thượng, Phú Gia, Cao Phong làm chết 21 người và hơn 100 người bị thương và sức ép; 70 con trâu, bò, 250 con lợn và nhiều gia súc gia cầm bị chết; hàng chục ngôi nhà bị cháy, có gia đình bị chết không còn ai, có gia đình bị chết 3 người; phá hủy 3 cây cầu, 20 ha ruộng vườn bị tàn phá phải san lấp nhiều năm mới canh tác được. Tội ác tày trời của đế quốc Mỹ vẫn không làm nao núng tinh thần và quyết tâm đánh Mỹ của nhân dân Thọ Xuân nói chung, nhân dân xã Nam Giang nói riêng. Biến đau thương thành hành động cách mạng, người dân Nam Giang vẫn kiên cường bám trụ sản xuất, vẫn đảm bảo lương thực, thực phẩm nuôi sống mình và giao nộp nghĩa vụ cho Nhà nước đầy đủ.

Đầu năm 1973, bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta.

Ngay sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Đảng bộ xã đã họp và quyết định một số nhiệm vụ trước mắt:

- Chỉ đạo các trường học từ nơi sơ tán về nơi cũ tiếp tục hoạt động; rút lực lượng dân quân trực chiến về làm nòng cốt trong các công việc đợt xuất của địa phương.

- Đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lúa và hoa màu; phát triển đàn lợn tập thể, đàn lợn, trâu, bò của xã viên để tăng nguồn phân bón, nguồn thực phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.

- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có người đi chiến đấu ở chiến trường B, C, K.

- Hoàn thành nhiệm vụ động viên tuyển quân, chi viện chiến trường; phấn đấu vượt chỉ tiêu kế hoạch giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước.

Tháng 6 năm 1973, huyện mở hội trại Lam Sơn, phát động chiến dịch “Sông Chu nổi sóng”, tiến quân vào chiến dịch hoàn chỉnh thủy nông, thi đua với huyện Triệu Sơn. Đây là chiến dịch lớn, huy động lực lượng dân quân tự vệ và thanh niên toàn huyện, tổ chức thành 3 sư đoàn và 5 trung đoàn, thực hiện “Quân sự hóa” với tinh thần “Quế Sơn kiên cường, xây dựng quê hương giải phóng, Thọ Xuân quật khởi tiến quân vào mặt trận thủy nông”, lấy lực lượng dân quân tự vệ làm nòng cốt xung kích, chỉ trong vòng nửa tháng đã đào đắp được gần một mét khối đất với hơn một triệu ngày công. Trong đó, lực lượng dân quân và thanh niên Nam Giang đã đóng góp hàng ngàn ngày công, góp phần cùng cả huyện hoàn thành cơ bản hệ thống thủy nông trong huyện và trên địa bàn xã.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Thời kỳ này các hợp tác xã ở Nam Giang đã tiến lên một bước trong công tác quản lý và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; kinh tế công khai đến từng đội sản xuất, ý thức làm chủ tập thể của xã viên được nâng cao, mọi người tích cực lao động sản xuất, xây dựng hợp tác xã với tinh thần: “Hợp tác là nhà, xã viên là chủ”, tiến tới hợp nhất thành hợp tác xã nông nghiệp toàn xã.

Để tạo điều kiện cho việc tháp nhất thành hợp tác xã nông nghiệp toàn xã, Nam Giang đã tổ chức cho nhân dân học tập Chỉ thị 209 của Ban Bí thư Trung ương, điều lệ hợp tác xã bậc cao, vận động thu hồi nợ, tài sản và ruộng đất công bị lấn chiếm. Thực hiện 5 mũi tiến công do Huyện ủy phát động:

- Tiến công vào mặt trận thủy lợi, hoàn chỉnh thủy nông.

- Tiến công vào vụ đông, làm bèo hoa dâu phân bón.

- Tiến công vào nhiệm vụ tuyển quân chi viện tiền tuyến.

- Tiến công vào trận địa khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới.

- Tiến công vào quản lý xã hội, quản lý thị trường.

Hợp tác xã tín dụng đã tận thu nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân dùng vào những mục đích có hiệu quả. Hợp tác xã mua bán với chức năng mua và bán các mặt hàng nông sản, thực phẩm của nông dân, tích cực cung ứng các mặt hàng cần thiết đối với nông dân, do đó đã góp phần ổn định giá cả, chống tư thương nâng, ép giá.

Về công tác xây dựng Đảng: Bước vào cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Ban chấp hành Đảng bộ xã luôn coi trọng việc quán triệt đường lối chủ trương của Đảng thông qua các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, kịp thời vận dụng vào địa phương một cách sát hợp, nghiêm túc và kịp thời.

Từ khi thành lập Đảng bộ 1963 - 1975, lần lượt các đồng chí Lê Trọng Thung (Phú Gia) Bí thư Đảng ủy từ 1963 - 1965; đồng chí Lê Đình Duyên (Kim Bảng) Bí thư Đảng ủy từ năm 1966 - 1971;; đồng chí Lê Viết Chén (Phong Lạc 2) Bí thư Đảng ủy từ năm 1972 - 1977.

Để Đảng bộ vững mạnh, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới, công tác bồi dưỡng rèn luyện đảng viên được Đảng bộ quan tâm thường xuyên. Trong đó nổi lên là việc xây dựng tiêu chuẩn “Đảng bộ cơ sở 4 tốt”, “chi bộ 4 tốt”. Qua các phong trào cách mạng của xã, Đảng bộ tăng cường việc tổng kết đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, đồng thời luôn lấy việc tự phê bình và phê bình trong đảng làm yếu tố nâng cao năng lực, sức chiến đấu của từng đảng viên, từng chi bộ.

Các lớp học của Đảng về bồi dưỡng lý luận chính trị sơ cấp do Huyện ủy tổ chức đều được Đảng bộ quan tâm, lần lượt cử đảng viên tham gia học tập nhằm nâng cao năng lực chính trị lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động công tác ở địa phương. Nhờ đó nhiều phong trào cách mạng do Đảng bộ tổ chức kịp thời triển khai sâu rộng và có hiệu qủa cao trong mọi tầng lớp nhân dân. Công tác phát triển đảng viên mới cũng được Đảng bộ quan tâm, đặc biệt là lớp đảng viên Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã kết nạp được hàng chục đảng viên, chủ yếu là lực lượng nữ thanh niên.

Trong khó khăn gian khổ, tuyệt đại cán bộ, đảng viên đã thể hiện tinh thần cách mạng tiến công, xung phong gương mẫu trong nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu ở địa phương cũng như chi viện chiến trường, thực hiện đúng khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

Bên cạnh việc bồi dưỡng phát triển đảng, những đảng viên có biểu hiện tiêu cực cũng được giáo dục và xử lý kịp thời.

Quá trình phấn đấu, rèn luyện trên 90% đảng viên Đảng bộ được xếp loại “4 tốt”, 80% chi bộ trong Đảng bộ đạt “Chi bộ 4 tốt”. Đảng bộ Nam Giang hằng năm được Huyện ủy Thọ Xuân công nhận là đơn vị đạt “Đảng bộ 4 tốt”.

Hoạt động của chính quyền xã: Thời kỳ này bộ máy chính quyền xã, hợp tác xã, đội sản xuất không ngừng được củng cố. Qua các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã, nhiều cán bộ tận tụy với dân, với đảng, nhiều quần chúng ưu tú đã được bầu vào các cương vị chủ chốt của chính quyền.

Chính quyền đã phát huy vai trò làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, nên đã có sức thu hút phong trào yêu nước trong mọi cá nhân, gia đình, tổ chức xã hội; mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều được nhân dân chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm túc.

Ngành nội chính của xã thời kỳ này do đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính, kiêm Trưởng Công an xã phụ trách. Mạng lưới công an được xây dựng ở cơ sở đi sâu nắm bắt tình hình, giám sát các đối tượng tình nghi, đề phòng biệt kích, gián điệp và tiến hành các biện pháp truyên truyền giáo dục bảo mật phòng gian trong nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn xã.

Thời gian từ 1965 - 1975, lần lượt các các ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã là: ông Ngô Hữu Ngư (Phúc Thượng), quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1964 - 1965; ông Đào Văn Long (Phúc Như) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ 1965 - 1967; ông Lê Văn Thau (Phúc Thượng) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1968 - 1970; ông Lê Đình Quản (Phong Lạc 2) Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1971 - 1973; ông Trần Khắc Huân (Cao Phong) quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính xã từ năm 1973 - 1975.

Các ông, bà làm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã gồm có: ông Lê Công Mơn (Phong Lạc 1) làm Phó Chủ tịch từ năm 1960 - 1967; bà Lê Thị Hoạch (Kim Bảng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1967 - 1969; ông Ngô Xuân Tài (Phúc Thượng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1969 - 1971; bà Lê Thị Tình (Phú Gia) làm Phó Chủ tịch từ năm 1971 - 1974; ông Ngô Xuân Tài (Phúc Thượng) làm Phó Chủ tịch từ năm 1974 - 1976.

Về hoạt động các đoàn thể quần chúng: Trong những năm chiến tranh ác liệt, các đoàn thể quần chúng đã nhanh chóng phát huy vai trò chính trị của tổ chức mình, nhất là việc động viên các phong trào thi đua ái quốc diễn ra rầm rộ ở địa phương.

Đoàn thanh niên lao động xã: đã tích cực phát động có hiệu quả phong trào “Ba sẵn sàng”(1) trong thanh niên. Với phong trào trên, bên cạnh lực lượng lớn nam thanh niên gia nhập quân đội vào chiến đấu ở các chiến trường, còn có nhiều nữ thanh niên xung phong lên đường làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, tiếp lương, tải đạn, bảo đảm giao thông vận tải trên các cung đường Trường Sơn, chiến trường nam khu 4 và chiến trường Lào. Số còn lại ở hậu phương hầu hết là nữ thanh niên, ngày đêm thi đua với những người ra trận sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi.

Qua thử thách của nhiều phong trào đoàn từ cơ sở, nhiều thanh niên ưu tú được kết nạp vào đảng, càng phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của chi bộ, Đảng bộ xã.

Từ năm 1965 - 1975, tổ chức đoàn đã động viên gần 700 thanh niên lên đường nhập ngũ (trong đó có 45 nữ), 102 người tham gia lực lượng thanh niên xung phong.

Hội Phụ nữ xã: đã nêu cao phong trào “Ba đảm đang”([17]) trong mọi hoạt động để để chồng con yên tâm đi chiến đấu, gánh nặng gia đình, xã hội đặt ra cho phụ nữ nhiều lo toan. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã và sự tổ chức chỉ đạo của đoàn thể, chị em phụ nữ trong xã đã vươn lên đảm đang mọi nhiệm vụ hậu phương, xứng đáng với niềm tin của người thân ngoài tiền tuyến.

Phong trào thi đua cấy dày, cấy thẳng hàng, đúng thời vụ, chăm sóc cây trồng, chăn nuôi gia súc được chị em tham gia thường xuyên, tích cực. Đáng trân trọng và khâm phục hơn nữa là những chị em là vợ liệt sĩ, nhiều người đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ của xã hội, đoàn thể giao phó.

Cùng với sự lớn mạnh của phong trào, số hội viên tham gia ngày một đông, năm 1965, toàn xã mới có hơn 700 hội viên, đến 1975 có gần 1.000 hội viên. Thời kỳ đầu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1967) Chủ tịch hội là bà Phạm Thị Tình, ủy viên Ban chấp hành hội là bà Ẩn, bà Hoàn, bà Lân, bà Hiên, bà Ngọc, bà Sáu, bà Dần, bà Dong. Phát huy truyền thống Hội mẹ chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp, Hội Phụ nữ xã và các chi hội phụ nữ ở các thôn đã đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, các gia đình có quân nhân tại ngũ, phối hợp cùng các hội làm tốt các chính sách hậu phương quân đội. Trong quá trình phấn đấu, Hội Phụ nữ xã, chi Hội Phụ nữ các thôn được Hội Phụ nữ tỉnh, huyện tặng nhiều bằng khen, giấy khen.

Hội Phụ lão xã cũng nêu cao phong trào “Phụ lão mẫu mực” động viên con, cháu tòng quân, chăm sóc gia đình và hăng hái thực hiện hoàn thành nhiều công việc của hợp tác xã như trồng và chăm sóc cây phủ xanh và ngụy trang đường làng, làm vườn ươm giống cây, bảo quản kho tàng, sân phơi hợp tác xã, trồng cây dược liệu cung cấp cho trạm y tế chế biến thành các vị thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc xã: luôn phát huy tinh thần đoàn kết, động viên chính trị trong mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực các phong trào cách mạng như: phong trào sản xuất, phong trào chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, phong trào giao thông, thủy lợi…Nhiều người trong Mặt trận Tổ quốc xã đã được bầu vào Hội đồng nhân dân xã và đội trưởng các đội sản xuất.

Từ năm 1965 - 1975, lần lượt các ông được bầu giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã: Lê Văn Sĩ, Lê Sĩ Quớ, Phạm Hữu Bưu.

Công tác chi viện cho tiền tuyến:

Chiến tranh bùng nổ, cả nước lên đường đánh giặc chống ngoại xâm, thì đây cũng là thời kỳ trong x㠓nhà nhà ra quân” đánh giặc. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, công tác chi viện cho tiền tuyến thời kỳ này luôn được Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể quần chúng quan tâm.

Về động viên tuyển quân chi viện chiến trường: Đảng bộ luôn xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của Đảng bộ. Từ đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xã đội và các đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, đăng ký quản lý lực lượng, tổ chức khám tuyển và giao quân chu đáo với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nhiệm vụ động viên tuyển quân không phải chỉ của xã đội, mà là của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể quần chúng và nhân dân trong xã. Ngày tiễn đưa con em lên đường nhập ngũ luôn là ngày hội của quần chúng.

Với khí thế “Ba sẵn sàng”, công tác động viên tuyển quân hằng năm đã đi vào nền nếp, không chỉ chuẩn bị lực lượng cho những đợt tuyển hằng năm mà còn chủ động có lực lượng dự bị sẵn sàng lên đường khi có lệnh đột xuất. Không chỉ có những thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự thời chiến mà còn có những người đã phục viên, xuất ngũ tình nguyện tái ngũ để được tham gia chiến đấu với quân xâm lược giặc Mỹ.

Từ năm 1965-1975, Nam Giang có gần 700 người nhập ngũ (trong đó có 45 nữ). Có 23 gia đình có 4 - 5 con; 85 gia đình có 2- 3 con, có gia đình có con độc nhất cũng xung phong lên đường ra trận tuyến. Năm nào Nam Giang cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch giao quân huyện giao. Cùng với những chàng trai ra trận, Nam Giang còn có 102 thanh niên xung phong và hàng trăm lượt người tham gia dân công hỏa tuyến đi phục vụ chiến chiến đấu, bảo đảm giao thông, vận tải hàng chi viện ở các chiến trường Trị Thiên, đường Trường Sơn và nước bạn Lào.

Trong chiến đấu gian khổ, con em Nam Giang đã nêu cao truyền thống cách mạng của quê hương, nêu cao tinh thần hy sinh dũng cảm, nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường, nhiều người để lại phần xương máu nơi trận mạc, nhiều người đạt danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ”; đặc biệt có người được Chủ tịch nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, đó là: Anh hùng Hoàng Ngọc Chương (1).

Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nam Giang có 118 liệt sĩ, 241 thương bệnh binh và người nhiễm chất độc hóa học, 7 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Toàn xã có 87 người được hưởng chế độ theo Quyết định 290 và 147, có 80 người được hưởng chế độ theo Quyết định 142; có 301 người hưởng chế độ theo Quyết định 162; có 671 được hưởng chế độ theo Quyết định 49 của Chính phủ…

Công tác chi viện: Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân, Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo, chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp phấn đấu hoàn thành và vượt chỉ tiêu, kế hoạch giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Từ năm 1965 - 1975, Nam Giang đã đóng cho Nhà nước và chi viện cho tiền tuyến 7.560 tấn thóc; 310.000 kg thịt lợn hơi; 107.000 kg gia cầm; 355.000 kg rau quả các loại… và nhiều tấn lương thực, thực phẩm, rau quả các loại ủng hộ các đơn vị bộ đội đóng quân trên địa bàn xã.

Vừa kháng chiến vừa ổn định đời sống nhân dân, trong 10 năm chiến tranh, việc cải thiện một phần ăn, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh của quần chúng đã mang lại những kết quả rõ rệt. Với mức ăn của hợp tác xã tuy chưa phải là đầy đủ (có lúc mất mùa do thiên tai, nhiều gia đình phải ăn cháo, ăn khoai) nhưng tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhân dân Nam Giang quyết vượt lên mọi khó khăn trong đời sống sinh hoạt, gom góp từng bát gạo gửi ra tiền tuyến để bộ đội ăn no, đánh thắng quân thù.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mười năm (1965 - 1975), Đảng bộ xã Nam Giang đã lãnh đạo quân dân trong xã vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, cũng là mười năm Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể quần chúng cùng toàn thể các tầng lớp nhân dân Nam Giang được bồi dưỡng ý chí cách mạng kiên cường, vượt lên muôn vàn khó khăn gian khổ, phấn đấu hết sức mình để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời chi viện sức người, sức của góp phần cùng quân và dân cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước.

 Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Nam Giang đã được Nhà nước tặng thưởng:

- 1 Huân chương Kháng chiến hạng Ba;

- 1 Huân chương Lao động Hạng Ba về phát triển kinh tế và phong trào HTX nông nghiệp;

- 1 Huân chương Chiến công hạng Ba về thành tích bắn rơi 1 máy bay giặc Mỹ;

- 15 dân quân trong xã đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua và được tặng Bằng khen;

- 938 người được tặng thưởng huân, huy chương các loại (trong đó có 1.899 huân, huy chương các loại (có 16 huân, huy chương Việt - Lào), 11 Huân chương Quân công hạng Ba, 19 Huy chương Quân kỳ Quyết thắng, 49 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 65 Huân chương Kháng chiến hạng Hai và hàng trăm huân, huy chương khác).

- Đảng bộ xã Nam Giang nhiều năm liền đạt Đảng bộ trong sạch vững mạnh;

- Lực lượng dân quân nhiều năm liên tục đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến và quyết thắng.

Ghi nhận những thành tích của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân đã đạt được như trên, ngày 18 tháng 4 năm 2005, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Nam Giang được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Thành tích cao đẹp của con em Nam Giang đã góp phần vào bản anh hùng ca chiến thắng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc; để lại truyền thống quý báu cho Đảng bộ và nhân dân trong xã, cho thế hệ con cháu mai sau.

 

 


 

 

Chương V

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG

VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1995)

 

I. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ NAM GIANG KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 - 1985)

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 24 tháng 9 năm 1975, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (khóa III) ra Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội... Miền Bắc tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.

Hòa trong không khí phấn khởi tự hào của cả dân tộc, ngay trong ngày 30/4/1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa đã kịp thời ra Nghị quyết chỉ đạo Đảng bộ nhân dân toàn tỉnh tổ chức hoạt động chào mừng chiến thắng của dân tộc và phát động đợt thi đua lấy tên là: “Chiến dịch mừng giải phóng Sài Gòn” từ ngày 01/5 đến ngày 19/5/1975, lập thành tích xuất sắc, lập công dâng Bác. Nội dung của đợt thi đua tập trung vào các nhiệm vụ: đẩy mạnh công tác thủy lợi, thu chiêm làm mùa hoàn thành kế hoạch tháng và quý, tạo nên khí thế mới trong sản xuất và công tác.

Cũng trong tháng 5 năm 1975, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII được tiến hành từ ngày 19 đến ngày 28, đề ra 3 công tác lớn của các năm 1975 - 1977 như sau:

- Tập trung chỉ đạo cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý kinh tế từ cơ sở đến các ngành kinh tế.

- Phát huy quyền làm chủ tập thể, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Tổ chức các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh.

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, cải tiến chỉ đạo của của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV, Huyện ủy Thọ Xuân ra Nghị quyết số 13 phát động phong trào thi đua thực hiện thắng lợi chiến dịch 55 ngày đêm “Tiến quân vào thời kỳ mới” của Đảng bộ tỉnh và hoàn thành kế hoạch năm 1975. Nội dung cơ bản của đợt thi đua do Huyện ủy phát động là:

- Nhanh chóng thu hoạch vụ mùa, ổn định đời sống nhân dân sau lũ lụt. Đẩy mạnh sản xuất vụ đông, khai hoang phục hóa hoàn chỉnh thủy nông.

- Phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1975, làm tốt công tác trị an, đăng ký quân dự bị.

Thực hiện chiến dịch 55 ngày “tiến quân vào thời kỳ mới”, Thọ Xuân giành được thành quả rất quan trọng. Thu hoạch vụ mùa nhanh gấp 3 lần năm trước, ăn chia phân phối tốt ổn định đời sống xã viên, giải quyết cho 26 xã ở trong diện mất mùa được vay lương thực. Gieo trồng hết diện tích vụ đông trong điều kiện khó khăn về thời tiết, giống…

Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết của Huyện ủy, hòa trong không khí thi đua sôi nổi của cả nước, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang bước vào thời kỳ mới với quyết tâm giành thắng lợi vượt bậc trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Thực hiện chiến dịch 55 ngày “tiến quân vào thời kỳ mới”, Nam Giang phát động phong trào thủy lợi nội đồng, tu bổ lại bờ vùng, bờ thửa, thu hoạch vụ chiêm Xuân, nhanh chóng triển khai sản xuất vụ mùa, tạo nên không khí mới đầy khí thế sôi nổi ở địa phương. Kết thúc chiến dịch, Nam Giang hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu giao nộp lương thực, thực phẩm, nông sản năm 1975, hoàn chỉnh cơ bản thủy lợi thủy nông nội đồng. Công tác tuyển quân năm 1975 địa phương đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu. Cùng với việc hoàn chỉnh thủy nông ở địa phương. Đội thủy lợi chuyên 202 của hợp tác xã Nam Giang có mặt tham gia các công trình thủy lợi lớn của tỉnh như: sông Lý, sông Hoàng, đắp đê sông Chu, đê sông Cầu Chày.

Ngày 25 tháng 4 năm 1976, cùng nhân dân cả nước, nhân dân Nam Giang phấn khởi tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung của cả nước. Đây thực sự là ngày hội lớn của toàn dân. Trong không khí ngày hội lớn của dân tộc, cử tri trong xã đã nô nức tham gia bỏ phiếu bầu cử lựa chọn những người xứng đáng vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Cuộc bầu cử đã tiến hành đúng luật và đã thành công rực rỡ. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, quy định Quốc huy và Quốc ca là bài Tiến quân ca, quy định Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam và chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng từ đây, Ủy ban hành chính các cấp đổi thành Ủy ban nhân dân.

Sau thành công của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI, tháng 6 năm 1976, Đảng bộ huyện Thọ Xuân tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XV. Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Phải tích cực tiến hành cuộc vận động tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý ở tất cả các hợp tác xã, các ngành. Nhanh chóng làm biến đổi nền kinh tế nông nghiệp trong huyện, tạo thế đi lên đồng đều trong phong trào thâm canh”.

Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ Nam Giang tiến hành rà soát tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý, xây dựng kế hoạch sản xuất, kế hoạch lao động, kế hoạch tài vụ, kế hoạch chăn nuôi, thực hiện hoạch toán kinh tế trong hợp tác xã.

Nhiệm vụ vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có tính chiến lược là đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề cấp bách về lương thực, thực phẩm. Trong những năm chiến tranh, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng sản lượng cây lương thực chính là lúa mới đạt trên 4 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người 15 kg/người/năm. Để tăng sản lượng, Đảng bộ xác định bên cạnh tăng năng suất, phải mở rộng diện tích vì còn quỹ đất có thể khai hoang, phục hóa chuyển từ cấy 1 vụ sang 2 vụ. Do đó đã tích cực chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức phát động thi đua làm giao thông - thủy lợi trong các hợp tác xã để củng cố hệ thống thủy lợi, đặc biệt là các công trình mương máng, cống dẫn tưới tiêu nước. Ngay từ vụ đông xuân 1975 - 1976, tổ chức ra quân rầm rộ, cán bộ, xã viên được huy động trong các đợt chiến dịch, đội chuyên thủy lợi 202 của các hợp tác xã được tăng cường lao động, là lực lượng làm thủy lợi thường xuyên, nòng cốt trong các chiến dịch cải tạo mương máng…

Thực hiện Nghị quyết 61/CP của Hội đồng Chính phủ và chủ trương của các cấp về tổ chức lại sản xuất theo hướng tiến lên sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, huyện Thọ Xuân tiến hành tổ chức lại các Hợp tác xã. Theo sự chỉ đạo của huyện, cuối năm 1975 đầu năm 1976, Đảng bộ đã tổ chức vận động thành lập hợp tác xã toàn xã, chỉ định ông Lê Đình Phiệt làm Chủ nhiệm, sau đó là các ông Ngô Xuân Tài, Đoàn Mạnh Sơn làm Chủ nhiệm. Sau khi được thành lập, Ban quản trị Hợp tác xã tiến hành cân đối đất đai, lao động, địa bàn dân cư, chia toàn xã thành các đội sản xuất nông nghiệp và các tổ, đội ngành nghề trực thuộc Ban Chủ nhiệm, xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức sản xuất.

Về cơ cấu ngành nghề, có các đội chuyên sản xuất lúa giống, đội chuyên cày, đội xe bò, đội chăn nuôi và một đội bảo vệ hoa màu. Thực hiện chế độ chính sách, ưu tiên các gia đình chính sách, người già, người tàn tật… được bù theo định xuất, còn người dân hưởng thụ theo công điểm. Bên cạnh đó, hợp tác xã cũng đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, đưa vào các loại giống lúa mới, bò lai và các công cụ sản xuất được cải tiến.

Về văn hóa xã hội, các trường học cấp I, cấp II cũng được xây dựng sửa chữa đảm bảo cho các cháu học tập không bị ảnh hưởng khi mưa nắng. Chất lượng dạy và học thật sự được quan tâm. Số học sinh đến trường ngày càng nhiều, địa phương cùng với ngành giáo dục đã tiến hành xóa mù chữ trong thời gian ngắn nhất, giúp đỡ học sinh nghèo học giỏi. Hợp tác xã cũng đã thành lập được nhà giữ trẻ cho các đội sản xuất. Người giữ trẻ được hưởng công điểm hợp tác xã, mọi chi phí do hợp tác xã đảm nhiệm. Khi các gia đình có việc hiếu, việc hỷ, hợp tác xã cũng đứng ra đảm nhiệm. Đám cưới được tổ chức tập trung theo nếp sống mới. Đám tang cũng tổ chức trang nghiêm gọn nhẹ, bãi bỏ dần các hủ tục lạc hậu. Trạm y tế của xã tiếp tục thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, phòng trừ các loại dịch bệnh.

Cơ sở vật chất của hợp tác xã từng bước được tăng cường như hội trường, nhà kho. Bên cạnh đó, hệ thống kênh mương tưới tiêu được củng cố đã mang lại chủ động cho nhân dân. Một số diện tích lúa 1 vụ nay chuyển sang 2 vụ đạt hiệu quả. Hợp tác xã đã đạt năng suất 5 tấn/ha trở lên. Nhiệm vụ lương thực và thực phẩm hằng năm đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Từ các năm 1976 - 1977, hệ thống đường giao thông trong xã được tu bổ, xây dựng cơ bản, đáp ứng lưu thông thuận lợi cho người dân. Ngoài ra, mỗi năm xã Nam Giang còn huy động 3 đến 4 lượt lao động với lực lượng từ 200 - 300 người tham gia các công trường đắp đê sông Lý, sông Hoàng.

Bên cạnh Hợp tác xã nông nghiệp, Nam Giang còn có Hợp tác xã tín dụng và Hợp tác xã mua bán, tổ sửa chữa cơ khí, cửa hàng ăn uống. Như vậy, thời gian này Nam Giang tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã, nhiều tổ hợp kinh tế với chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Song, cùng chung một mục đích phát triển kinh tế, phục vụ đời sống nhân dân trong xã và đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Các loại hình hợp tác xã ấy đều có sở hữu chung là sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa.

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân xã Nam Giang đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề thủ công. Chiến tranh biên giới Tây Nam (1977) và chiến tranh biên giới phía Bắc (tháng 2 năm 1979) đã làm ảnh hưởng một phần công tác tổ chức lại sản xuất ở địa phương. Hàng trăm thanh niên Nam Giang tiếp tục lên đường làm nghĩa vụ quân sự giúp nước bạn Campuchia và Lào. Nhiều người đã hy sinh hay để lại một phần xương máu trên các chiến trường Lào, Campuchia, biên giới phía Bắc...

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm, đã kết hợp chặt chẽ công tác chính trị tư tưởng và công tác tổ chức xây dựng Đảng bộ phát triển về cả số lượng, chất lượng. Đảng bộ đã tổ chức quán triệt Nghị quyết 23, 24 của Trung ương Đảng, cử cán bộ, đảng viên đi học lớp bồi dưỡng lý luận tại trường Đảng của huyện. Thông qua các phong trào cách mạng tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách kết nạp vào Đảng nhiều quần chúng ưu tú để bổ sung lực lượng đảng viên cho Đảng bộ. Thường xuyên củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ; hoạt động chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong xây dựng các phong trào thi đua yêu nước… Nhờ đó, các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả, năng lực tổ chức vận động quần chúng không ngừng được nâng cao; hoạt động của các cấp ủy Đảng đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình tạo ra sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động, tạo ra năng lực trí tuệ tổ chức lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị.

Cùng với ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ lần thứ IX, X, huyện Đảng bộ lần thứ XIX, XX, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nam Giang đã đi vào con đường sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, có tổ chức, có kế hoạch khai thác phát huy thế mạnh sẵn có của địa phương, vươn lên thoát khỏi tình trạng yếu kém trở thành đơn vị khá, có sự tiến bộ rõ nét về nhiều mặt. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, cơ sở vật chất của hợp tác xã cũng khá hơn trước nhiều. Ngoài việc phân phối, cho xã viên, đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước, còn tích lũy xây dựng một số công trình phục vụ sản xuất: Chuồng trại chăn nuôi, lò ủ giống, sân phơi, nhà kho, nhà làm việc của hợp tác xã,...

Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985) là “Phát triển một bước sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân”, nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, khắc phục đáng kể tình trạng không bình thường về phân phối lưu thông, làm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc trong những năm sau.

Tình hình trong nước và tỉnh ta có nhiều biến động phức tạp. Mâu thuẫn giữa cung và cầu nảy sinh, thiếu thốn về vật tư, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, các nhu yếu phẩm khác. Bất ổn về tài chính, giá cả đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của cán bộ và nhân dân, nhất là khu vực nông thôn.

Trước tình hình đó, năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100 chủ trương khoán thẳng ruộng đất cho người lao động. Hợp tác xã đảm nhiệm phần đầu tư chi phí và thu sản phẩm theo định mức của từng hạng đất. Nam Giang đã có bước đi đúng, phù hợp với Chỉ thị 100 ở một số khâu, vì thế quyết tâm chuyển đổi nhanh chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ, đưa nhân dân từng bước xóa đói giảm nghèo, tiến tới tăng nhanh hộ giàu. Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung cơ bản với nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm các công trình trọng điểm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, mà khâu cơ bản là giống, cây, con. Ổn định hệ thống giống thuần chủng, tích cực du nhập giống mới có chất lượng cao.

Nhằm tạo đà để bứt phá đi lên, Ban chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã ra Nghị quyết đổi mới tư duy kinh tế đối với mô hình HTX nông nghiệp đã củ kỷ, lạc hậu bằng mô hình Công - Nông - Thương tín. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban quản trị HTX nông nghiệp được kiện toàn, mô hình Công - Nông - Thương tín đã bước đầu triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả.

Về Công nghiệp: một số mô hình sản xuất công nghiệp như: mở lò nấu thủy tinh, tái chế các phế liệu thủy tinh có trong dân; nung vôi phục vụ sản xuất; liên doanh, liên kết với các cơ sở công nghiệp trong và ngoài tỉnh để hổ trợ phát triển công nghiệp tại địa phương...

Về Nông nghiệp: khởi động lại chương trình cơ giới hóa trong nông nghiệp để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Trại chăn nuôi của HTX được củng cố và phát triển theo xu hướng tập trung hiện đại.

Về Thương nghiệp và tín dụng: thành lập đội thương nghiệp do đồng chí phó chủ nhiệm phụ trách ngành nghề chủ trì, liên doanh, liên kết với các huyện miền núi khai thác lâm sản, hàng hóa để giao thương với các tỉnh ngoài. Liên doanh, liên kết với Công ty than Hòn Gai để cung cấp than cho ngành nghề nung vôi, nung gạch tự túc vật liệu xây dựng để kiến thiết và cung ứng cho xã viên... Có thể nói đây là một điển hình mới của Thọ Xuân thời bấy giờ.

Vượt qua khó khăn, thử thách của những năm đầu sau chiến tranh (1975 - 1985), Đảng bộ xã Nam Giang đã có nhiều cố gắng vươn lên và đã đạt được những thành tích quan trọng trên từng lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt, bước đầu thực hiện chính sách mới trong nông nghiệp khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ xã viên để tập thể, hộ gia đình tổ chức sản xuất làm thay đổi căn bản hình thức sản xuất thời chiến đã không còn phù hợp, năng suất, sản lượng tăng lên. Bên cạnh thành quả đạt được còn nhiều hạn chế, yếu kém như: hạ tầng kinh tế - xã hội chưa được cải thiện đáng kể; việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu nên năng suất lúa màu chỉ đạt 120 - 130kg/sào, bình quân thu nhập đầu người chỉ đạt 8 - 13kg/người/tháng; những khó khăn trong đời sống xã hội và đời sống nhân dân do hậu quả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, sự bao vây cấm vận và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch… đã tác động không tốt đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã… Phát huy những thành quả đạt được, khắc phục, sửa chữa những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang mạnh dạn, sáng tạo vận dụng thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc của Đảng, tiếp tục xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.

II. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN NAM GIANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1986 - 1995)

Thành công của đổi mới tổ chức quản lý trong nông nghiệp tạo cơ sở để Đảng ta quyết tâm đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Tháng 12 năm 1986, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI được tiến hành tại Hà Nội khẳng định: toàn quân, toàn dân tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện điều đó cần phải tiến hành đổi mới nhiều mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là ổn định mọi mặt kinh tế - xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong chặng đường tiếp theo. Về kinh tế, tập trung xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu từng bước đẩy lùi khó khăn về tạo nguồn tích lũy tái sản xuất mở rộng.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, trong thời điểm này, tình hình an ninh chính trị ở Nam Giang diễn biến phức tạp.

Từ những năm 1980 - 1986, một số quần chúng ở Nam Giang liên tục gửi đơn khiếu kiện, tố cáo số cán bộ trong Ban Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp tham ô tài sản tập thể, vi phạm quyền dân chủ, ức hiếp quần chúng. Ủy ban kiểm tra đã tiến hành kiểm tra và tham mưu cho Ban Thường vụ Huyện ủy giải quyết, kết luận về sai phạm của một số cán bộ hợp tác xã; Nhưng do giải quyết của cấp trên chưa đúng đắn kịp thời, một số cán bộ vi phạm không bị kỷ luật mà còn được giữ chức vụ cao hơn, dẫn đến gây bức xúc trong dư luận và quần chúng nhân dân.

Năm 1987, lợi dụng chính sách dân chủ công khai của Đảng, một số đối tượng quá khích tập hợp một số người tự xưng là “Hội chống tiêu cực” kéo lên Ủy ban nhân dân tỉnh đòi giải quyết. Tiếp sau những phần tử quá khích tiếp tục vận động lôi kéo quần chúng đấu tranh làm cho tình hình nội bộ Nam Giang ngày thêm trầm trọng. Từ Nam Giang, điểm nóng đã lan tỏa đến một số địa phương khác trong huyện như: Phú Yên, Xuân Vinh…

Để giải quyết điểm nóng ở Nam Giang, cấp ủy, chính quyền huyện đã cử đoàn cán bộ về Nam Giang nắm tình hình, tuyên truyền giáo dục nhân dân, đồng thời tiến hành củng cố hệ thống chính trị xã và các thôn, xóm. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị thực hiện Nghị quyết 24 của Tỉnh ủy về chỉnh đốn Đảng, Thông tri số 27 của Huyện ủy về xử lý kỷ luật một số cán bộ chủ chốt của xã tham ô tư lợi về kinh tế, về đất đai. Những người vi phạm đã được xử lý kỷ luật, thu hồi lại tài sản cho tập thể.

Sau khi tình hình được giải quyết, Đảng bộ xã Nam Giang đã triển khai thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Hợp tác xã đo đạc lại ruộng đất, khoanh vùng sản xuất xác định cây, con đề ra các mục tiêu kinh tế, giao lại cho các đội sản xuất thực hiện.

Hợp tác xã đã tổ chức bình từng hạng đất, lấy hộ làm đơn vị nhận khoán, khoán cho người lao động theo mức khoán. Người nhận khoán và gia đình chỉ phải nộp thuế cho Nhà nước và lệ phí nước cho xí nghiệp thủy nông. Quỹ đầu sào nộp cho hợp tác xã và nộp phí cho bảo vệ thủy nông, còn năng suất bao nhiêu thì hộ sản xuất được hưởng. Vì vậy, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên. Lương thực, thực phẩm đủ ăn cho các gia đình và bước đầu có tích lũy. Các loại thuế, phí, lệ phí đều hoàn thành cho Nhà nước và thủy nông. Đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt, tiềm năng lao động được khai thác hiệu quả, sức lao động được phát huy do khoán 100 ra đời đã cởi trói và mang lại lợi ích cho người nông dân. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện khoán 100 đã bộc lộ những hạn chế khó khăn cần khắc phục:

Một là: Người lao động chưa thực sự làm chủ nguồn tư liệu sản xuất như: đất đai, dụng cụ sản xuất, nguồn phân bón, cây con giống, nước tưới...

Hai là: Mức khoán cao, người lao động không còn phấn khởi tích cực thi đua sản xuất như trước, cộng với thiên tai bão lụt khiến năng suất, sản lượng giảm sút, dẫn đến vốn của tập thể bị chiếm dụng, xã viên khê đọng sản ngày một tăng.

Từ thực tiễn trên, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 chỉ ra kinh tế hợp tác xã có nhiều hình thức từ thấp đến cao; hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp là đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; gia đình xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng khác với hợp tác xã, còn chủ động phát triển sản xuất, kinh doanh dưới nhiều hình thức.

Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đảng bộ xã Nam Giang đã tổ chức quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ, Ban Chủ nhiệm các hợp tác xã và toàn thể nhân dân học tập, nắm vững 3 yêu cầu và 5 nội dung cơ bản của Nghị quyết 10.

Do thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 15 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, nông dân xã Nam Giang tự làm chủ tư liệu sản xuất, chủ động tổ chức sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, khai hoang mở rộng diện tích canh tác, đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất như: trâu, bò, công cụ, máy bơm nước, máy tuốt lúa phương tiện vận tải... Vì thế sản xuất nông nghiệp ở xã Nam Giang có điều kiện phát triển, năng suất lúa bình quân được nâng lên, số hộ đói nghèo giảm đáng kể.

Tháng 6 năm 1991, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII được tiến hành để khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra và xác định phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong những năm 1991 - 1995. Đại hội chỉ rõ: Nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ về “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang rình rập ngăn cản sự nghiệp đổi mới trên toàn đất nước ta. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân tộc phải đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần yêu nước, bản lĩnh cách mạng kiên cường, từng bước đẩy lùi các tiêu cực, giữ vững chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa… đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bằng sự cố gắng tự lực tự cường, có sự hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân xã Nam Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, kinh tế Nam Giang vẫn mang nặng tính tự cấp, tự túc, sản xuất nông nghiệp là chính, tính chất manh mún: lúa nước, ngô, khoai, sắn, năng suất, sản lượng còn thấp. Thời kỳ này vẫn còn nhiều số hộ đói nghèo. Nguyên nhân một phần là do những yếu tố chủ quan của con người như: trình độ nhận thức và nhất là cơ chế quản lý đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Tháo gỡ được vấn đề này, Nam Giang cũng như bao địa phương khác sẽ chuyển mình theo sự chuyển đổi của cơ chế quản lý mới, từng bước vươn lên.

Về văn hóa - xã hội: Vốn là một vùng quê có truyền thống hiếu học, nhưng do kinh tế khó khăn thời hậu chiến, cộng với thiên tai bão lũ liên miên, thường xuyên mất mùa, đời sống nhân dân xã Nam Giang cũng như các địa phương khác trong huyện, trong tỉnh vô cùng khó khăn. Trường cấp I, cấp II xuống cấp; đời sống giáo viên khó khăn, học sinh bỏ học nhiều.

Thực hiện Nghị quyết số 14 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, chú trọng giáo dục toàn diện theo nội dung “Dạy chữ, dạy người và dạy nghề”; giáo dục gắn với lao động sản xuất. Thực hiện Đề án nâng cao chất lượng giáo dục của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ và chính quyền quan tâm bồi dưỡng chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ thầy, cô giáo; địa phương tu sửa lại trường lớp... Cùng với nền kinh tế phục hồi, phát triển, công tác giáo dục 3 cấp học ở Nam Giang cũng từng bước được đi lên. Số học sinh đậu vào trường cấp III, đậu đại học, cao đẳng ngày một nhiều; giảm đáng kể tình trạng học sinh bỏ học. Bình quân cứ 3 người thì có 1 người đi học.

Công tác Y tế được nâng cao một bước. Việc phòng chống bệnh được tuyên truyền rộng rãi xuống từng người dân, do vậy không có dịch bệnh xảy ra. Tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn 1,1%; hơn 90% số hộ trong xã có giếng nước sạch, nhà vệ sinh hai ngăn, một số gia đình đã làm nhà vệ sinh tự hoại.

Các hoạt động văn hóa thông tin tiếp tục có bước phát triển. Nam Giang là một trong những xã thực hiện tốt quy chế văn hóa mới nông thôn. Xã đã xây dựng được thư viện với hàng trăm đầu sách. Hệ thống loa truyền thanh được cải tạo, đảm bảo phát thanh trực tiếp, tuyên truyền đến nhân dân các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến khoa học kỹ thuật và mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương. Đầu năm 1993, xã Nam Giang đã có điện phục vụ một số điểm thiết yếu. Điện đã mang lại thuận lợi rất nhiều cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Những ngày lễ tết, các tổ chức đoàn thể như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh kết hợp tổ chức văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao tạo không khí sôi nổi, vui tươi. Kinh tế phát triển, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng cao, các hoạt động văn hóa được quan tâm, các tệ nạn cờ bạc, mê tín dị đoan được xóa bỏ triệt để.

Về quốc phòng - an ninh: Thực hiện chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quân sự huyện về củng cố xây dựng lực lượng, huấn luyện dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới, năm 1987, Nam Giang tiến hành bóc tách, xây dựng lực lượng dân quân, lấy chất lượng là chính. Tổ chức lực lượng dự bị động viên theo sự chỉ đạo của huyện, mỗi xã là một đại đội. Hằng năm, hai lực lượng này được huấn luyện sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch. Năm 1987, Nam Giang thành lập Hội Cựu binh sỹ và đến tháng 12 năm 1989 tổ chức thành lập Hội Cựu chiến binh xã.

Về công tác an ninh, thực hiện Nghị quyết 28 -NQ/TU và Chỉ thị số 34 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng về thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách về an ninh trật tự trong tình hình mới. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ xã, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nam Giang nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm... Lực lượng an ninh nhân dân luôn được củng cố, bồi dưỡng nghiệp vụ... Do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong xã không có người vi phạm pháp luật; tình làng nghĩa xóm gắn bó keo sơn, cùng nhau thực hiện đời sống văn hóa mới, do vậy công tác quốc phòng, an ninh được đảm bảo.

Mười năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế xã hội xã Nam Giang đã có bước phát triển đáng kể. Từ một xã thuần nông, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lúa và cây màu thấp, bình quân lương thực đầu người chỉ từ 90 đến 100 kg (1980 - 1981), đến năm 1995 đã nâng lên trên 250 kg thóc, chưa kể lương thực phụ như khoai, ngô... Xã có tuyến đường tỉnh lộ chạy qua, lại có chợ Neo là một chợ lớn của khu vực, nhiều hộ gia đình đã phát triển ngành nghề buôn bán, các ngành nghề thủ công. Một số mô hình trang trại ra đời trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá. Nhiều gia đình mua máy cày bừa, máy bơm nước, máy tuốt lúa. Đàn gia súc, gia cầm ngày một tăng nhanh đảm bảo được sức kéo và nguồn phân hữu cơ bón ruộng. Hình dáng “phố Neo” ngày càng sầm uất. Dịch vụ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng, dụng cụ sản xuất, cửa hàng tạp hóa, hiệu thuốc, tiệm may phát triển phục vụ nhân dân.

Mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, những thành quả về kinh tế và văn hóa xã hội mà Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang đạt được là nền móng vững chắc, tạo đà để Nam Giang tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới.


 

 

Chương VI

NAM GIANG TRONG THỜI KỲ

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

(1996 - 2018)

 

I. ĐẢNG BỘ XÃ NAM GIANG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾN HÀNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2010)

Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986 - 1996), đất nước ta đã thu được những thành tựu hết sức to lớn. Tháng 6 năm 1996, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VIII, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội chỉ rõ: công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhân dân ta phải tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thức đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao vào đầu thế kỷ sau, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, sự đoàn kết xây dựng của Đảng bộ, sự phấn đấu lao động của nhân dân, Ban Chấp hành đảng bộ xã lần lượt tháo gỡ, khắc phục những khó khăn, tranh thủ những thuận lợi để xác định nhiệm vụ, đề ra chủ trương đúng đắn, giải pháp sát thực để tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh mà nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ đã đề ra.

- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã bình quân hằng năm đạt trên 11%, trong đó năm cao đạt tới 13,8% (2006). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; tăng dần tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại. Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người đạt 5,5 triệu đồng, tăng 72,7% so với năm 2000. Tổng thu nhập GDP năm 2005 đạt 42 tỷ đồng. Đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,1 triệu đồng. Nhiều gia đình mua sắm được nhiều đồ dùng đắt tiền cho sinh hoạt hàng ngày.

Trong nông nghiệp, được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, xã Nam Giang đã tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật cây trồng, nhất là khâu giống và cơ cấu cây trồng nghiêm ngặt để bảo đảm sản xuất 3 vụ trong năm, chú ý vụ chiêm xuân và vụ đông là 2 vụ có nhiều giống lúa lai, ngô lai cho năng suất cao. Những năm 1998 - 1999, xã đã tiến hành dồn điền đổi thửa lần 1, từ 10.500 thửa xuống còn 6.759 thửa, giảm 3.705 thửa; diện tích bình quân tăng từ 328 m2 lên 500 m2.

Thực hiện Nghị quyết 04-NQ/HU của Huyện ủy Thọ Xuân về đổi điền dồn thửa cho hộ nông dân lần thứ 2, năm 2007, Ban Chấp hành Đảng bộ đã xây dựng Nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đổi điền dồn thửa cho hộ nông dân. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu: Tạo điều kiện để mở rộng sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa và phát triển kinh tế trang trại, gắn với xây dựng cánh đồng 50 triệu, hộ nông dân có thu nhập 50 triệu đồng/năm trở lên; Xóa bỏ tình trạng ruộng đất manh mún, giảm tối đa số thửa của mỗi hộ. Mỗi hộ chỉ còn 1 đến 2 thửa, ở 1 hoặc 2 xứ đồng với diện tích bình quân mỗi thửa từ 1.500m2 trở lên...

Việc đổi điền dồn thửa kết hợp với bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý, thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương nội đồng, nâng cao chất lượng phục vụ của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, đồng thời ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào sử dụng đại trà đạt từ 60 - 70% diện tích canh tác, hệ số sử dụng đất các năm đạt 2,5 lần. Chính vì vậy, năng suất không ngừng tăng lên. Đến năm 2001, tổng sản lượng lương thực đạt 3.900 tấn; năm 2004 tăng lên 4.450 tấn, giá trị thu nhập đạt 36 - 37 triệu đồng/ha, giá trị thu nhập từ trồng trọt đạt 10,35 tỷ đồng. Đến năm 2010, năng suất bình quân đạt 13,6 tấn/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt ổn định từ 4.200 - 4.300 tấn. Bình quân lương thực đạt 585kg/người. Giá trị thu nhập đạt 60 triệu đồng/ha. Thu nhập từ ngành trồng trọt năm 2010 đạt 18,6 tỷ đồng.

Chăn nuôi được xác định là ngành chính có giá trị thu nhập cao trong sản xuất nông nghiệp. Cấp ủy, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn thực hiện, kết hợp với các chế độ khuyến khích của nhà nước, vừa đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, hình thành các gia trại, trang trại vừa và nhỏ. Đàn bò tăng bình quân hằng năm trên 10% với xu hướng chăn nuôi trâu, bò hàng hóa; nhiều hộ nuôi từ 2 - 3 con, chu kỳ quay vòng từ 4 - 6 tháng. Năm 2001, đàn trâu bò có 584 con, đến năm 2005 là 900 con; đàn lợn tăng từ 800 con năm 2001 lên 1.400 con năm 2005. Tổng thu từ ngành chăn nuôi năm 2004 đạt 10,65 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 50,7% trong nông nghiệp.

Tính đến đầu năm 2010, trên địa bàn xã đã có 13 trang trại, gia trại. Tổng thu từ sản xuất, kinh doanh của các trang trại, gia trại đạt 3,86 tỷ đồng (chiếm 26%). Bình quân mỗi trang trại đạt 220 triệu đồng/năm. Nhiều hộ chăn nuôi đã áp dụng chăn nuôi theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp. Số hộ chăn nuôi lợn kết hợp với xây hầm BIOGA đã tăng lên 142 hộ. Đặc biệt, trong các năm 2007 và 2008, số hộ chăn nuôi quy mô lớn gia tăng, tổng số từ 5.080 con lợn tăng lên 6.630 con trong năm 2008. Tổng sản lượng xuất chuồng trong các năm 2006 - 2009 ước đạt 1.562 tấn thịt lợn hơi. Năm 2008, sau dịch bệnh tai xanh diễn ra, số đầu con và trọng lượng xuất chuồng giảm.

Năm 2008, đàn trâu, bò đạt khoảng 1.100 - 1.150 con. Tuy nhiên, do giá cả trâu, bò giảm sút và người dân đầu tư máy cày thay thế cho trâu bò nên số lượng đàn trâu, bò giảm mạnh. Năm 2009 - 2010 chỉ còn 638 con bằng 53% kế hoạch.

Chăn nuôi gia cầm và các vật nuôi khác cũng tăng đáng kể. Nhiều hộ nuôi vịt đẻ và ấp trứng vịt lộn, con giống bán ra thị trường. Ngoài ra còn nuôi gà thả vườn, nuôi chó thịt, thỏ, nhím... Sản lượng bình quân đàn gia cầm đạt trên 50 tấn/năm. Tổng thu nhập từ ngành chăn nuôi năm 2010 đạt trên 15 tỷ đồng, chiếm 50% giá trị thu nhập trong nông nghiệp.

Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản đã được đẩy mạnh. Một số hộ nông dân xây đắp, củng cố hệ thống ao hồ bằng gạch, đá, chuyển từ nuôi cá thịt sang nuôi cá giống đem lại hiệu quả kinh tế cao. Một số hộ đã chuyển sang nuôi ba ba, ếch, cá trê phi, cá rô đồng, lươn trạch đồng có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề và xây dựng cơ bản trong nông thôn đã phát triển đồng đều ở các khu vực. Đặc biệt là phố Neo, trục đường 506, các trục đường liên thôn, các hộ đã đầu tư phát trển ngành nghề như: Chế biến sản phẩm sau thu hoạch, ghò hàn, mộc, lắp ghép gia công đồ gỗ cao cấp, trang trí nội thất… Năm 2006 là 513 hộ, đến năm 2010 tăng lên 631 hộ. Trên địa bàn xã có 5 công ty và 1 doanh nghiệp tư nhân, thu hút hàng trăm lao động, các sản phẩm chủ yếu là hàng cao cấp như tôn lạnh, gạch nung và gạch không nung chịu nén cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng tại địa phương và vùng lân cận. Thu nhập từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - ngành nghề và xây dựng cơ bản đạt 14,2 tỷ đồng năm 2006, tăng lên 21,68 tỷ đồng năm 2009 (tăng 152%), trong đó xây dựng cơ bản đạt trên 10 tỷ đồng.

 Các loại hình dịch vụ thương mại tiếp tục phát triển đa dạng về chủng loại và quy mô, hình thức. Một số mô hình dịch vụ mới như Hợp tác xã kinh doanh vận tải, cửa hàng vàng bạc đá quý, đại lý xe máy, dịch vụ Internet; dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp như: cày bừa, gặt đập lúa liên hoàn… phát triển ngày càng mở rộng về quy mô năng lực dịch vụ. Ngoài ra còn có gần 1.000 lao động đi làm ở ngoài tỉnh và 20 người đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài; một bộ phận mua bán lợn con, lợn thịt, làm hàng xay hàng sáo, làm nghề hàng mã… Những loại hình dịch vụ trên đã thúc đẩy kinh tế phát triển tại địa phương, là nhân tố xây dựng xã Nam Giang trở thành tụ điểm kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ thương mại đa dạng của khu vực đông nam huyện Thọ Xuân. Số hộ tham gia dịch vụ thương mại từ 160 hộ năm 2006 tăng lên 272 hộ năm 2010. Thu nhập từ 12,6 tỷ đồng năm 2006 tăng lên 15,9 tỷ đồng năm 2010, tăng 126%.

Công tác đầu tư xây dựng tại địa phương tiếp tục phát triển tốt. Nguồn vốn đầu tư tăng mạnh là do tranh thủ được các nguồn vốn cấp trên và do tích luỹ được trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Từ năm 2006, Đảng bộ và nhân dân đã tập trung hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn bằng bê tông và tập trung đổ bê tông nội đồng một số tuyến đường chính với số lượng 25 km. Xây dựng 5 phòng học trường Mầm non; 5 phòng học trường Trung học Cơ sở; 12 phòng học nhà 2 tầng trường Tiểu học với tổng giá trị 5,7 tỷ đồng; xây dựng nhà văn hóa Phong Lạc, Phố Neo, Phúc Hạ. Ngoài ra, các công trình khu vực kinh tế tư nhân và nhân dân cũng đã được đầu tư xây dựng với hàng chục ngôi nhà kiên cố từ 1 đến 3 tầng. Tổng nguồn vốn đầu tư trong những năm 2000 - 2005 là gần 5 tỷ đồng, tăng 4 lần so với giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, trong các năm từ 2006 - 2010, số vốn đầu tư tại địa phương (cả khu vực công và tư nhân) lên tới hàng chục tỷ đồng. Tính đến năm 2010, toàn xã có 722 hộ có xe máy, 1.626 hộ có ti vi, 18 hộ có xe ô tô vận tải và xe chở khách, 970 hộ có máy điện thoại cố định...

Hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, bám sát vào yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Tham mưu kịp thời cho Đảng ủy, chính quyền về chuyển dịch cơ cấu, bố trí mùa vụ, giống cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; hướng dẫn cho hộ nông dân chăm bón và phòng trừ sâu bệnh kịp thời; cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, đáp ứng được nhu cầu, bảo đảm chất lượng cho nông dân, góp phần đưa năng suất cây trồng, sản lượng lương thực ngày càng cao hơn. Hoạt động dịch vụ điện luôn đảm bảo cho phục vụ xuất và sinh hoạt đúng quy định của ngành. Doanh thu trong 5 năm 2006 - 2010 của Hợp tác xã dịch vụ là trên 6,5 tỷ đồng, trong đó nguồn thu từ dịch vụ điện sáng là hơn 4, tỷ đồng.

Cùng với sự hình thành và phát triển của các thành phần kinh tế nói chung trong huyện, các thành phần kinh tế của địa phương cũng đang trong quá trình hình thành và phát triển dưới những mức độ khác nhau. Đặc biệt là phát triển kinh tế tư nhân, nhiều hộ từ sản suất nông nghiệp là chủ yếu đã chuyển sang buôn bán phát triển tiểu thu công nghiệp và dịch vụ thương mại, hình thành các tổ hợp sản xuất, đại lý các mặt hàng lớn, xây dựng nhà xưởng chế biến, sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng, góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của địa phương phát triển theo hướng công nghiệp.

- Về Văn hóa - Xã hội.

Công tác giáo dục luôn được Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh quan tâm, thường xuyên chăm lo, vì vậy đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ nguồn ngân sách nhà nước và sự ủng hộ đóng góp của nhân dân đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang, mua sắm đồ dùng, thiết bị đảm bảo cho việc dạy và học. Nhà trường tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học; duy trì nề nếp quy chế chuyên môn trong trường học gắn liền với việc đẩy mạnh cuộc vận động, các phong trào do ngành giáo dục phát động, thực hiện xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Các trường vừa quan tâm đến chất lượng đại trà vừa quan tâm đến chất lượng mũi nhọn. Tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên, cơ sở vật chất được củng cố và xây dựng mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác khuyến học, khuyến tài đã có sự chuyển biến tích cực, tất cả các thôn đều có chi hội và xây dựng được quỹ khuyến học, hằng năm đều có tổng kết và trao phần thưởng cho học sinh đạt thành tích trong học tập. Số học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày một tăng. Trong các năm 2000 - 2005, có 75 em thì từ năm 2006 - 2009 đã có 152 em đậu vào các trường đại học, cao đẳng. Trung tâm học tập cộng đồng được duy trì và hoạt động ngày càng hiệu quả, đã chủ động phối hợp với các ngành đoàn thể và Hợp tác xã tổ chức các lớp học, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân. Chỉ tính trong 5 năm 2006 - 2010 đã tổ chức 125 lớp học với 20 nghìn lượt người tham gia học tập.

Công tác thông tin, tuyên truyền được chú trọng. Xã đã đầu tư nâng cấp hệ thống đài truyền thanh với tổng trị giá trên 50 triệu đồng. Tập trung tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương trên hệ thống loa truyền thanh, qua đội ngũ báo cáo viên, các hội nghị của địa phương, các đoàn thể và các chi bộ.

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được cấp ủy, chính quyền tiếp tục quan tâm chỉ đạo, được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Năm 2005, Nam Giang có 5/9 làng khai trương xây dựng làng văn hóa; có 2 làng đạt làng văn hóa cấp tỉnh (Phúc Như, Kim Bảng) và 2 làng đạt làng văn hóa cấp huyện (Phú Gia, Cao Phong); 80% gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Đến năm 2010, có 9/9 làng xây dựng làng văn hóa, 2 cơ quan văn hóa, trong đó đã có 2 làng đạt danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh, 3 làng, 1 khu phố, 1 cơ quan đạt danh hiệu cấp huyện. Phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Gia đình ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” cũng phát triển khá tốt. Tỷ lệ gia đình đạt gia đình văn hóa từ 80% năm 2006 lên 85,2% năm 2009.

Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì tốt, tập trung vào các ngày lễ lớn của dân tộc, các sự kiện chính trị quan trọng của địa phương như: đón nhận danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khai trương xây dựng các làng, cơ quan văn hóa, ngày đại đoàn kết toàn dân tộc hằng năm (18/11). Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao đã có sức lan tỏa, thu hút tập hợp nhiều tổ chức cá nhân tham gia, đặc biệt đã có những gia đình đã có cả vợ chồng con cái tham gia tập luyện và biểu diễn. Tính đến năm 2010, xã đã thành lập được 05 Câu lạc bộ thể dục thể thao, 01 Câu lạc bộ thơ ca. Thường xuyên tổ chức các buổi liên hoan văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao các làng văn hóa nhân các ngày tết, ngày lễ của đất nước, của địa phương.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm đẩy mạnh. Chất lượng khám và điều trị bệnh của trạm y tế tiếp tục được nâng lên, từng bước nâng cao chất lượng chuẩn Quốc gia về y tế. Đội ngũ y, bác sỹ, y tế thôn được bố trí đầy đủ vừa đảm bảo trình độ chuyên môn vừa bảo đảm về tinh thần trách nhiệm phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Hằng năm tổ chức khám và điều trị cho hàng ngàn lượt người. Năm 2001, khám, điều trị cho cho 3.102 lượt người; năm 2004, xã được công nhận là xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, đã tổ chức khám, điều trị cho 4.032 lượt người. Năm 2009, thực hiện khám và điều trị ban đầu cho đối tượng Bảo hiểm y tế, đã tổ chức khám cho 358 lượt, đạt 113% kế hoạch và cấp thuốc Bảo hiểm y tế cho 1.053 lượt. Năm 2010, đã khám và điều trị cho 1.259 lượt, cấp thuốc cho 1.874 lượt.

Công tác Y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được coi trọng. Đến năm 2010, đã có 889 hộ/1.615 hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh, đạt 55%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước sạch đạt 96%. Tổ chức thu gom rác thải đưa vào nơi quy định ở khu phố Neo. Hướng dẫn, chỉ đạo các hộ gia đình tự thu gom rác thải, đào hố chôn lấp hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.

Công tác dân số, kế hoạch hóa tiếp tục đạt những kết quả tốt. Đội ngũ làm công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình từ xã đến thôn được duy trì thường xuyên. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt từ 0,5 - 0,67%, phong trào xây dựng mô hình gia đình 2 con được nhiều cặp vợ chồng trẻ thực hiện.

Việc thực hiện chính sách xã hội được triển khai đầy đủ, đúng quy định. Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc chi trả các chế độ chính sách cho các đối tượng theo quy định của Nhà nước không để xảy ra mất mát khiếu kiện. Tập trung giải quyết tồn đọng về công tác chính sách đối với người có công như đối tượng người tham gia hoạt động trước năm 1975; hồ sơ người tham gia hoạt động ở biên giới, hải đảo và làm nghĩa vụ quốc tế theo quy định 142 và 180.

Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên thăm hỏi động viên, tặng quà cho các đối tượng chính sách và người có công nhân các ngày lễ, ngày tết. Tiến hành rà soát, bình xét cấp sổ cho hộ nghèo, cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tượng thuộc diện Nhà nước quy định.

- Về Quốc phòng - An ninh:

Công tác quốc phòng được xác định là nhiệm vụ rất quan trọng. Đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động khảo sát phân loại độ tuổi tổ chức biên chế vào lực lượng dân quân, lực lượng dự bị động viên. Tổ chức huấn luyện quân sự hằng năm theo đúng kế hoạch của trên. Tổ chức giáo dục, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác quân sự quốc phòng cho đối tượng 3, 4, 5 theo quy định của bộ chỉ huy quân sự tỉnh được 75 người. Tổ chức tốt đăng ký quản lý thanh niên trong độ tuổi làm nghĩa vụ hằng năm. Từ năm 1996 đến 2010, đã có 137 thanh niên nhập ngũ, đạt 100% kế hoạch, phối hợp giải quyết tốt chế độ hậu phương quân đội.

Công tác an ninh trật tự luôn được quan tâm lãnh đạo. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được duy trì ổn định. Công tác phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội đã được coi trọng. Sự phối hợp giữa lực lượng công an xã với các ban ngành, đoàn thể trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc đã có sự tiến bộ rõ rệt. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia, phát hiện tố giác tội phạm và tệ nạn xã hội đã có chuyển biến tích cực, góp phần triệt phá các tụ điểm cờ bạc, lô đề do quần chúng nhân dân phát hiện tố giác. Trong các năm 2006 - 2009 đã đấu tranh làm rõ 54 vụ. Trong đó, gây rối trật tự công cộng 23 vụ; đánh bài, đánh đề 14 vụ; đánh người gây thương tích 7 vụ; trộm cắp 5 vụ; tai nạn giao thông 4 vụ; vận chuyển ma tuý 1 vụ.

Thực hiện Chỉ thị số 10 và đề án số 375 của Chủ tịch UBND tỉnh về xây dựng khu dân cư an toàn về an ninh trật tự, Nam Giang đã thành lập ban ANTT ở xã do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban. 11 tổ bảo vệ an ninh trật tự ở thôn do đồng chí Công an viên làm tổ trưởng; củng cố 76 tổ An ninh xã hội. Hoạt động của ban chỉ đạo và của các tổ an ninh trật tự, an ninh xã hội có hiệu quả góp phần vào sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội lành mạnh để nhân dân yên tâm sản xuất.

- Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

Công tác tư tưởng chính trị luôn được Đảng ủy xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đảng ủy đã tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên đến cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ và nhân dân, gắn với xây dựng các chương trình hành động sát thực, cụ thể và tổ chức thực hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt, có tính thuyết phục cao, nên tạo được sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã. Vì vậy, quần chúng nhân dân tích cực tham gia thực hiện các chương trình như đổi điền dồn thửa, giao thông thủy lợi nội đồng, bê tông hóa đường giao thông nông thôn; tham gia đóng góp tự nguyện để xây dựng các công trình phúc lợi ở địa phương và các hoạt động xã hội khác đạt được kết quả khá tốt.

Do làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng hầu hết cán bộ, đảng viên luôn giữ vững lập trường, quan điểm kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa và nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng ta. Phát huy và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trên tất cả đời sống xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh cương lĩnh điều lệ Đảng, chấp hành tốt pháp luật Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn nhạy bén, tiếp cận và đổi mới, khắc phục tư tưởng trì trệ, bảo thủ; thống nhất đoàn kết cao trong nội bộ Ban Chấp hành, trong Đảng bộ và toàn thể nhân dân. Tích cực học tập nâng cao nhận thức, gương mẫu trong lối sống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Lòng tin của nhân đối với Đảng và cán bộ, đảng viên được tăng cường.

Các hoạt động thông tin tuyên truyền hướng vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm gắn với các phong trào thi đua chào mừng các ngày kỷ niệm lớn thông qua các hội thi, hội diễn, các buổi toạ đàm, mít tinh nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng đồng thời quán triệt đến 100% cán bộ, đảng viên về học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thông qua cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã giúp cho cán bộ Đảng viên trong toàn Đảng bộ và nhân dân thấy được trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể đối với từng lĩnh vực, công việc mình phụ trách. Do vậy, từ năm 2005 - 2010, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, điều hành của chính quyền, sự ủng hộ của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ và nhân dân, kinh tế xã hội Nam Giang liên tục đạt mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm đạt 11,7%. Cơ sở vật chất hạ tầng như: đường, trường, trạm được tăng cường; trường, trạm từng bước được công nhận chuẩn Quốc gia; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên, quốc phòng - an ninh được giữ vững.

Năm 2009, sau hơn 2 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về thực hiện Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ đã có nhiều chuyển biến về tinh thần trách nhiệm trong nhiệm vụ được giao. Có 2 tập thể và 22 cá nhân được khen thưởng trong dịp sơ kết hơn 2 năm về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Công tác tổ chức cán bộ cũng được Đảng ủy thường xuyên quan tâm. Tổ chức xây dựng quy chế, quy hoạch về công tác tổ chức cán bộ, chủ động trong việc lãnh đạo, nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật; thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý; kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, tư cách cử đi đào tạo tại các lớp dài hạn, ngắn hạn tại huyện và tỉnh làm nguồn tham gia vào các chức danh chủ chốt của chính quyền từ thôn đến xã đảm bảo trẻ hóa đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chất lượng cán bộ từng bước được chuẩn hóa và nâng cao. Thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị. Từ năm 2000 đến 2005, đã cử 6 đồng chí đi học chuyên môn, 3 đồng chí học lý luận chính trị; 136 lượt bí thư chi bộ, trưởng thôn được bồi dưỡng nghiệp vụ. Đến năm 2010, trong Ban Chấp hành Đảng bộ, trình độ chuyên môn Cao đẳng 01 đồng chí, Trung cấp 07 đồng chí; trình độ lý luận Trung cấp 7 đồng chí, Sơ cấp 02 đồng chí.

Đảng ủy luôn quan tâm lãnh đạo kiện toàn các chi bộ gắn liền với kiện toàn các thôn theo đúng quy định của điều lệ Đảng và các quy định hiện hành của Nhà nước cũng như điều lệ của các tổ chức đoàn thể. Thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng hoạt động của chi bộ”, Đảng ủy đã tập trung giải quyết dứt điểm các đơn vị yếu, coi trọng việc bồi dưỡng, sắp xếp bố trí hợp lý cán bộ vào vị trí phù hợp với trình độ, năng lực và sở trường công tác. Từ năm 2005 - 2010, có 16 Bí thư chi bộ được bầu mới qua đại hội nhiệm kỳ của các chi bộ và 10 trưởng thôn được bầu mới.

Công tác phát triển đảng viên mới đã có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 2000 - 2010 đã kết nạp được 46 đảng viên mới; làm thủ tục và trao huy hiệu đảng cho các đồng chí đảng viên 30, 40, 50, 60 năm tuổi Đảng kịp thời, đầy đủ.

Công tác kiểm tra giám sát và thi hành kỷ luật đảng được thực hiện nghiêm túc. Cấp ủy đảng đã tăng cường kiểm tra đảng viên và các chi bộ chấp hành đường lối chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nghị quyết, chỉ thị của đảng, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về chế độ nề nếp sinh hoạt đảng. Thông qua kiểm tra giám sát phát hiện các vụ việc vi phạm, chỉ đạo sử lý các trường hợp vi phạm khuyết điểm. Từ năm 2000 đến 2005, đã kiểm tra 52 lượt đối với chi bộ và 20 đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra đã xử lý kỷ luật đối với 05 đảng viên (01 cảnh cáo, 02 khiển trách và 02 xóa tên); chấp nhận 05 trường hợp xin ra khỏi Đảng. Từ năm 2006 - 2010, đã phát hiện và xử lý 8 trường hợp (cảnh cáo 6 và khiển trách 2 đồng chí). Thông qua kiểm tra giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng đã góp phần ngăn ngừa các biểu hiện vi phạm, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và uy tín của Đảng trong xã hội.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã luôn giữ vai trò là trung tâm đoàn kết tổ chức tốt các hoạt động của mình. Vận động các đoàn viên, hội viên, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ chính trị của địa phương, các phong trào, các cuộc vận động như: “Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa; phong trào xây dựng quỹ vì người nghèo, xóa nhà tranh tre dột nát; phong trào nông dân sản xuất giỏi.... Thường xuyên duy trì quy chế phối hợp với đảng, chính quyền để hoạt động có hiệu quả góp phần quan trọng trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền tạo không khí dân chủ trong xã hội, vận động nhân dân thực hiện tốt nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa ở các cụm dân cư, từng gia đình đạt kết quả cao; nhiều năm liền được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện công nhận là đơn vị hoạt động xuất sắc trong huyện.

Đoàn Thanh niên là lực lượng đi đầu trong phong trào xung kích tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi đầu trong hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày kỷ niệm, ngày lễ, ngày Tết, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Thường xuyên xây dựng và củng cố tổ chức đoàn. Tổ chức vận động đoàn viên tham gia ủng hộ phong trào nghĩa tình biên giới hải đảo, nhà ở cho thanh niên xung phong nghèo, ủng hộ tủ sách thanh niên làm theo lời Bác được số tiền là 5,4 triệu đồng. Từ năm 2005 - 2010, đã mở 5 lớp đối tượng đoàn, kết nạp mới 369 đoàn viên. Hằng năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Trung ương đoàn và Tỉnh đoàn tặng Bằng khen.

Hội Phụ nữ đẩy mạnh các hoạt động, các phong trào như phong trào nuôi con khỏe dạy con ngoan, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, đồng thời tập hợp, thu hút hội viên vào tham gia sinh hoạt hội. Chỉ tính từ năm 2005 đến đầu năm 2010, hội đã thu hút được 191 hội viên, nâng tổng số hội viên lên 782 người, đạt 132%. Vận động chị em xây dựng thêm quỹ hội, quỹ hội từ 39,4 triệu đồng đến năm 2010 đã tăng lên 89,5 triệu đồng. Từ năm 2005 - 2010, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tỉnh hội và Trung ương hội tặng Bằng khen.

Hội Nông dân với phong trào vận động hội viên tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình xoá đói, giảm nghèo. Hội đã tập hợp được lực lượng, trí tuệ sáng tạo của mọi người dân trong xã, khai thác tiềm năng đất đai, tích cực chuyển đổi con giống, cây trồng, vật nuôi, giúp nhau về kỹ thuật chăm sóc gieo trồng, đã tạo nên một bước nhảy vọt về năng xuất, sảng lượng cũng như giá trị thu nhập trên 1 ha ngày một cao. Hội đã có nhiều đổi mới, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thiết thực của hội viên như tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng quỹ giúp đỡ nhau trong khó khăn... Nhiều hội viên đã đi đầu trong mô hình phát triển kinh tế trang trại, gia trại, chuyển đổi du nhập giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nghề phụ. Số hội viên tham gia hội ngày một đông. Chỉ tính từ năm 2005 đến năm 2010, hội đã vận động được thêm 190 hội viên. Qua đánh giá hằng năm, Hội Nông dân luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hội Cựu chiến binh đã phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, luôn đi đầu trong các phong trào làm kinh tế, sinh hoạt văn hóa - xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường ở địa phương. Hội cũng đã tích cực vận động số anh em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương tham gia sinh hoạt. Chỉ tính từ năm 2005 đến năm 2010, Hội đã kết nạp được 143 hội viên, nâng tổng số lên 536 hội viên, đạt 98,6%. Hội cũng đã vận động hội viên đóng góp xây dựng quỹ hội được 90,4 triệu đồng.

Sau gần 15 năm tổ chức và thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nghị quyết Đại hội Đảng bộ, với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, phối hợp chặt chẽ đồng bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, sự phấn đấu nỗ lực vượt mọi khó khăn của nhân dân; với tinh thần đoàn kết một lòng, Đảng bộ xã Nam Giang đã giành được những kết quả và thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; Chính trị ổn định và giữ vững, đời sống nhân dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần, bộ mặt địa phương ngày càng đổi mới. Với những kết quả trên là cơ sở để Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện thắng lợi và hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2010 - 2018.

II. ĐẢNG BỘ XÃ NAM GIANG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2018)

Tháng 5 năm 2010, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ xã Nam Giang tiến hành Đại hội lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội đã đánh giá những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong quá trình Đảng bộ lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, các mục tiêu mà nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đề ra.

Nghị quyết của Đại hội đã đặt ra những mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể cho nhiệm kỳ 2010 - 2015, trong đó phương hướng chung là: Tiếp tục phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát huy cao nhất năng lực của các thành phần kinh tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài kết hợp với nguồn lực địa phương để đẩy mạnh tốc độ phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa kết hợp với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố xây dựng hệ thống chính trị thực sự vững mạnh với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Nghị quyết cũng đặt ra một số mục tiêu trọng tâm: Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 13,5% trở lên, trong đó nông nghiệp tăng 6%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 17,0%; dịch vụ thương mại 17,5%. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 40%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 30%; dịch vụ 30%. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 13,5 triệu đồng/năm. Tổng sản lượng lương thực ổn định 4.300 - 4.400 tấn/năm trở lên; tổng đàn trâu, bò 1.200 con; tổng đàn lợn 8.000 con. Tổng thu ngân sách địa bàn hằng năm vượt dự toán huyện giao 5% trở lên. Xây dựng 3 trường đạt chuẩn Quốc gia. Ổn định tỷ lệ phát triển dân số: 0,5% - 0,6%. Giảm hộ nghèo 3%/ năm. Hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự; giữ vững an ninh quốc phòng, ổn định tình hình cơ sở. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; 80% chi bộ đạt TSVM, 80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, hằng năm mỗi chi bộ kết nạp được 01 đảng viên trở lên.

Các đại biểu tham dự Đại hội đã thảo luận và thống nhất đề ra một số chương trình trọng tâm:

- Quy hoạch phát triển vùng lúa năng suất chất lượng và hiệu quả cao, gắn với sự hình thành và phát triển các trang trại, coi đây là một bước đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp.

- Phát huy lợi thế để xây dựng và phát triển cụm nghề, gắn với phát triển dịch vụ, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế ở địa phương.

- Cải cách hành chính toàn diện, gắn với nâng cao năng lực quản lý điều hành của chính quyền, để chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân.

Đại hội cũng đã bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Lê Văn Thái được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Đoàn Văn Hòa là Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy và đồng chí Nguyễn Thành Tua là Phó Bí thư Đảng ủy, phụ trách chính quyền.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng ủy đã thường xuyên tổ chức công tác giáo dục bồi dưỡng chính trị chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Quyết định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy, nhận thức của cán bộ và nhân dân được nâng lên, các điển hình tiên tiến trong lao động, học tập được nhân rộng, tình đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau được khơi dậy trong cán bộ, các tổ chức, đoàn thể, khu dân cư và trong từng gia đình.

Thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Kế hoạch số 75/KH-UBND, ngày 2/7/2012 của UBND huyện về thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới huyện Thọ Xuân giai đoạn 2012 - 2015, Đảng ủy xã Nam Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nhằm hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra. Qua rà soát đánh giá ban đầu, xã mới đạt 6/19 tiêu chí, thu nhập đầu người năm 2010 mới đạt 9,8 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo chiếm 13,3%; tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 70%; Cơ sở vật chất, giáo dục chưa đạt chuẩn, nhà văn hóa, khu thể thao còn thiếu, công sở làm việc chưa đáp ứng nhu cầu; Hệ thống giao thông nội đồng, giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng phục vụ cho sản xuất và đi lại mới đáp ứng được 50% so với yêu cầu. Bên cạnh đó, nhận thức của không ít nhân dân, thậm chí cả cán bộ, đảng viên về chương trình chưa sâu sắc, còn có thái độ trông chờ vào nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước...

Xác định Chương trình xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ mới và khó đối với cấp cơ sở, tuy nhiên, việc xây dựng thành công nông thôn mới trên địa bàn xã sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nam Giang đã tổ chức quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, của huyện đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, huy động hệ thống chính trị vào cuộc. Đảng ủy cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo, chỉ đạo UBND thành lập Ban quản lý; xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện, phân công các đồng chí trong Ban Chấp hành, các ngành, đoàn thể, cán bộ công chức phụ trách và hướng dẫn các thôn tổ chức thực hiện.

Năm 2014, để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng ủy đã xây dựng Nghị quyết chuyên đề số 41-NQ/ĐU, ngày 12 tháng 4 năm 2014; tổ chức cho cán bộ tập huấn nghiệp vụ về kiến thức xây dựng nông thôn mới; lập quy hoạch và kế hoạch tổ chức thực hiện được huyện phê duyệt; tổ chức các hoạt động tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích để các thôn tập trung thi đua xây dựng nông thôn mới, quyết tâm hoàn thành trước năm 2016.

Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, tháng 5 năm 2015, Đảng bộ xã Nam Giang đã long trọng tổ chức Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đại hội đã đánh giá nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cũng như những kết quả đã đạt được, những hạn chế yếu kém trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện. Nghị quyết Đại hội đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho nhiệm kỳ 2015 - 2020. Trong đó, mục tiêu chung là: Tiếp tục phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát huy cao nhất năng lực của các thành phần kinh tế; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài kết hợp với nguồn lực địa phương để đẩy mạnh tốc độ phát triển; nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, quan tâm giải quyết tốt công tác an sinh xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố xây dựng hệ thống chính trị thực sự vững mạnh với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết cũng đặt ra những mục tiêu chủ yếu:

- Về kinh tế: Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 38.886.500.000 đồng; Sản lượng lương thực có hạt bình quân hằng năm 4.200 tấn; Sản lượng các cây trồng chủ yếu ba vụ trong năm trên diện tích 660 ha, đạt năng suất 6,3 tạ/ha; Tổng đàn gia súc hằng năm: trâu, bò 1.454 con, lợn 1960 con; Số hộ sản xuất, kinh doanh cá thể: tổng số 2.100 hộ, trong đó, 1.390 hộ sản xuất nông nghiệp; 450 hộ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; 300 hộ kinh doanh dịch vụ. Số lượng doanh nghiệp: 09; Số trang trại trên địa bàn: 10; Tỷ lệ tăng thu ngân sách hằng năm 5%; Thu nhập bình quân đầu người/năm 46,1 triệu đồng; Tỷ lệ thôn đạt chuẩn nông thôn mới 100%; Giao thông nông thôn được cứng hóa đạt 90% trở lên.

- Về văn hóa, xã hội, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hằng năm 0,5%; Tỷ lệ hộ nghèo 3 - 4%, hộ cận nghèo 4 - 5%; 100% các hộ gia đình có nhà ở kiên cố; 98 - 99% trẻ em dưới 6 tuổi được tiêm phòng hằng năm; 92,5% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa; 100% các thôn có nhà văn hóa; 75% thôn đạt tiêu chí kiểu mẫu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Về môi trường, 100% dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh; 100% thôn đạt tiêu chuẩn môi trường;

- Về an ninh trật tự, 100% khu dân cư đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự;

- Về xây dựng Đảng, giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hằng năm có trên 90% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh; bình quân hằng năm kết nạp được 16 đảng viên mới trở lên.

Nghị quyết cũng đã đề ra 3 chương trình trọng tâm trong nhiệm kỳ:

1. Chương trình phát triển nông nghiệp theo chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Chính phủ. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giảm diện tích trồng lúa còn 300 ha; đưa diện tích cây màu, cây ăn quả có chất lượng hiệu quả cao 5 ha ở những vùng khó tưới nước.

Phấn đấu cơ cấu kinh tế là: giảm tỷ trọng nông nghiệp còn 20%; nâng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản 23,1%; dịch vụ thương mại 56,2%.

2. Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng phát triển đô thị.

3. Chương trình phát triển nguồn nhân lực qua đào tạo, đến năm 2020 đạt 60 đến 70% và nâng cao hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức đến nhiệm kỳ 2020 - 2025 có 100% cán bộ cơ sở có bằng chuyên môn đại học và 100% có trình độ trung cấp lý luận trở lên.

Để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Ban Chấp hành Đảng bộ cũng đã xây dựng chương trình hành động, đề ra các giải pháp chủ yếu để tổ chức thực hiện, trọng tâm là đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới.

Đại hội cũng đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Trần Quốc Tuấn được bầu là Bí thư Đảng ủy; đồng chí Nguyễn Thành Tua là Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy; đồng chí Lê Văn Minh là Phó Bí thư, phụ trách chính quyền.

Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đặc biệt là chương trình xây dựng nông thôn mới. Sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng ủy, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và đặc biệt là sự ủng hộ của nhân dân, Nam Giang đã đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đặc biệt là thực hiện chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ đã lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chỉ đạo xây dựng và triển khai đề án Đồng Ngâu, được các cấp có thẩm quyền duyệt quy hoạch 67 ha đất vùng thường xuyên bị ánh hưởng do thiên tai, ngập lụt. Đến năm 2018, đã có 11 trang trại với diện tích xây dựng đạt 27 ha đang hoạt động có hiệu quả. Từ năm 2010 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hng năm đạt 17,5%. Sản lượng lương thực bình quân hng năm đạt 4.090 tấn; đàn trâu, bò đạt 843 con; năm 2016 là 1.100 con, năm 2017 là 1.020 con và năm 2018 giảm còn 734 con. Tổng đàn lợn là 6.892 con, riêng năm 2018 là 1.870 con. Từ năm 2010 - 2015, thu nhập bình quân đầu người hằng năm đạt 15,9 triệu đồng. Đến năm 2018, thu nhập bình quân đầu người tăng lên 39,3 triệu đồng.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản có tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 18,4/17%, bằng 108% kế hoạch. Sản phẩm chủ lực của địa phương là sản xuất tiểu thủ công nghiệp với các mặt hàng truyền thống là nghề mộc dân dụng, cơ khí, xây dựng và sản xuất tôn lạnh. Từ năm 2010 - 2018, việc xây dựng nhà ở kiên cố trong nhân dân phát triển mạnh, trung bình hằng năm đạt mức gần 30 tỷ đồng; tốc độ xây dựng trong lĩnh vực công cũng đạt tốc độ cao, đạt 4 tỷ đồng/năm.

Dịch vụ thương mại đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trên 20%. Tham gia hoạt động dịch vụ thương mại thường xuyên, chủ yếu là các hộ dọc quốc lộ 506, có thu nhập cao như đại lý xe máy, đại lý xay xát lúa, dịch vụ vận tải hành khách, cửa hàng vật liệu xây dựng, của hàng vàng bạc, đá quý... Tính đến hết năm 2016, toàn xã có hơn 20 doanh nghiệp và Công ty TNHH (Xe máy, xăng dầu, tôn, máy nông nghiệp, vàng bạc đá quý, đồ gỗ...); có 18 xe ô tô khách và vận tải; có 150 hộ kinh doanh vừa và lớn, có 160 hộ kinh doanh nhỏ lẻ, 2 nhà máy xay xát, có hàng trăm cơ sở sản xuất đồ gỗ, vật liệu xây dựng và các nghề khác. Tổng thu từ các ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại đạt hàng trăm tỷ đồng.

Hoạt động của Hợp tác xã dịch vụ đã có nhiều chuyển biến tích cực, bám sát vào yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chính quyền về chuyển dịch cơ cấu, bố trí mùa vụ, giống cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hướng dẫn cho hộ nộng dân chăm bón và phòng trừ sâu bệnh kịp thời, cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu đáp ứng được nhu cầu, bảo đảm chất lượng cho nông dân, góp phần đưa năng suất cây trồng, sản lượng lương thực ngày càng tốt hơn; hoạt động dịch vụ điện, đảm bảo cho phục vụ sản xuất và sinh hoạt đúng quy định của ngành.

Xây dựng hạ tầng cơ sở được quan tâm đẩy mạnh. Từ năm 2010 đến năm 2015, đã tiến hành làm mới đường giao thông nông thôn được 3,9 km, mương tiêu trong các khu dân cư 41 km; giao thông nội đồng 1,6 km, giá trị 1,1 tỷ đồng; mương tưới tiêu ngoài đồng 1.250m, giá trị gần 300 triệu đồng; hệ thống cầu cống ngoài đồng giá trị 275 triệu đồng... Xã cũng đã đầu tư xây mới Trạm y tế đạt chuẩn giai đoạn 2, quy mô 14 phòng, 10 giường bệnh, trị giá 3,34 tỷ đồng; xây dựng chuẩn giai đoạn 1 trường Mầm non và trường Tiểu học, giá trị 4,726 tỷ đồng; làm mới nhà bia Di tích lịch sử văn hóa khu mộ bà Hoàng Thái hậu, dự toán 266 triệu đồng; nâng cấp hệ thống truyền thanh trị giá 86 triệu đồng; làm mới Cầu Neo, cầu Phong Lạc trị giá 6,109 tỷ đồng...

Để đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới, cùng với những cơ chế chính sách của Trung ương, của tỉnh và của huyện về hỗ trợ vốn xây dựng nông thôn mới, Ban Chấp hành Đảng bộ, Hội đồng nhân dân xã ra Nghị quyết ban hành một số cơ chế hỗ trợ, kích cầu các thôn và nhân dân đầu tư xây dựng các hạng mục công trình theo tiêu chí nông thôn mới như: Hỗ trợ xây dựng nông thôn mới cho mỗi thôn bằng 50 triệu đồng; khen thưởng đối với các thôn sớm hoàn thành; hỗ trợ mỗi thôn bằng 30 tấn xi măng để hoàn thiện hệ thống lòng lề đường, mương và nắp đậy trong khu dân cư từ nguồn ngân sách xã.

Việc huy động các nguồn lực xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao. Đến hết năm 2016, đã huy động được trên 113,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh: 6,8 tỷ đồng (6,1%); ngân sách huyện 1,3 tỷ đồng (1,2%); ngân sách xã 24 tỷ đồng (21,2%); nhân dân đóng góp 12 tỷ đồng (10,7%). Ngoài ra, nhân dân còn đầu tư vào xây dựng mới và sửa chữa là 68 tỷ đồng (60%). Có 223 hộ đầu tư xây dựng nhà ở mới, gần 200 hộ đầu tư nâng cấp nhà ở và công trình phụ trợ, 482 hộ đầu tư xây dựng mới công trình nhà tiêu hợp vệ sinh. Trong quá trình đầu tư, xây dựng nông thôn mới, xã đã cân đối đủ nguồn lực và không còn nợ xây dựng cơ bản.

 Thu, chi ngân sách đảm bảo đúng quy định. Trong các năm 2010 - 2015, tổng thu ngân sách là 30.535.783.136 đồng; tổng chi ngân sách là 29.722.884.041 đồng. Năm 2018, thu ngân sách nhà nước đạt 903.398 triệu đồng.

Về văn hóa - xã hội: Chất lượng giáo dục có sự chuyển biến rõ nét. Cả 3 trường từng bước được xếp loại cao dần, từ tốp trung bình của huyện đến năm 2015, trường Mầm non được xếp thứ 14 của huyện, trường Tiểu học từ tốp trung bình của huyện, đến năm 2015 đã vươn lên tốp đầu, năm 2017 được công nhận lại trường chuẩn Quốc gia sau 5 năm. Trường Trung học Cơ sở được công nhận là trường chuẩn Quốc gia vào ngày 26/3/2017. Năm học 2017 - 2018, trường Trung học Cơ sở xếp thứ 3/42 trường trong toàn huyện. Từ năm 2010 đến năm 2018, các trường luôn đạt trường tiên tiến cấp huyện.

Đảng ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh thường xuyên chăm lo đến công tác giáo dục. Các trường tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục một cách toàn diện, kết hợp với thực hiện các phong trào thi đua do ngành giáo dục phát động; chất lượng giáo dục đại trà được nâng lên, chất lượng giáo dục mũi nhọn được cải thiện. Từ năm 2010 - 2018, số học sinh được giải thưởng cấp tỉnh, cấp huyện là 335 giải. Trong đó, năm 2016, trường Trung học Cơ sở có 01 giải Quốc gia.

Công tác khuyến học khuyến tài đã có nhiều chuyển biến tích cực. Quỹ khuyến học của các chi hội khuyến học ở thôn được nâng lên, quỹ khuyến học của các dòng họ được duy trì; hằng năm đều có tổng kết và trao phần thưởng cho học sinh và giáo viên có thành tích trong dạy và học. Từ năm 2010 đến năm 2018 đã trao phần thưởng cho trên 2.400 học sinh, hàng trăm giáo viên với số tiền hàng trăm triệu đồng. Trung tâm học tập cộng đồng được duy trì và hoạt động có hiệu quả, chủ động phối hợp với các ngành, các đoàn thể và Hợp tác xã tổ chức các lớp học chuyển giao tiến bộ khoa học và cập nhật các kỹ năng ở nhiều lĩnh vực cho nông dân. Từ năm 2010 đến năm 2018 đã tổ chức trên 220 lớp, với gần 28.000 lượt người tham gia, được xếp loại A của huyện.

Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân; tập trung tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương; nêu gương, biểu dương các điển hình tiên tiến và cá nhân xuất sắc ở các khu dân cư, đặc biệt là công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới.

Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chương trình. Ngay sau khi triển khai đề án xây dựng nông thôn mới, cấp ủy, chính quyền đã định hướng cho các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, ban chỉ huy các thôn tuyên truyền bằng nhiều hình thức nhằm thu hút các tầng lớp nhân dân chung sức xây dựng nông thôn mới. Công tác tuyên truyền được triển khai rộng rãi, thường xuyên, phong phú, đa dạng gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền với vận động, lồng ghép tuyên truyền qua các hoạt động sinh hoạt tập thể, các hội nghị, các cuộc họp tại khu dân cư, qua hệ thống truyền thanh, qua băng zôn, panô, khẩu hiệu, cổ động... từ đó làm cho từng người dân, cộng đồng dân cư nhận thức đầy đủ và sâu sắc, xác định rõ trách nhiệm, vai trò chủ thể trực tiếp thực hiện xây dựng nông thôn mới với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ” thành quả xây dựng nông thôn mới. Trong đó, tập trung tuyên truyền, biểu dương những cách làm hay, những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng nông thôn mới để toàn dân hăng hái tham gia. Từ những cách làm hay, những mô hình điển hình được tuyên truyền kịp thời, sẽ có tác động lan tỏa rộng khắp địa bàn toàn xã.

Hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì và từng bước được nâng cao. Tập trung hoạt động vào các dịp lễ tết và đón nhận danh hiệu làng văn hóa; phong trào bóng đá nữ đã hình thành và có chiều hướng phát triển tốt. Năm 2018, Nam Giang tham gia Liên hoan phát thanh huyện Thọ Xuân đạt giải Khuyến khích; tham gia hội thi tuyên truyền lưu động huyện Thọ Xuân đạt giải Ba...

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư có sự chuyển biến rõ nét. Hằng năm đều tổ chức tổng kết vào dịp 18/11 tại các khu dân cư. Tỷ lệ gia đình văn hóa được nâng lên từ 85,2% năm 2010 đến năm 2015 là 89,6%. Có 9/9 làng văn hóa được tỉnh và huyện công nhận danh hiệu làng văn hóa, trong đó có 2 làng văn hóa cấp tỉnh, 7 làng văn hóa cấp huyện.

Triển khai thực hiện Quyết định số 3507/QĐ-UBND, ngày 18/9/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Nghị quyết số 05-NQ/HU, ngày 6/12/2017 của Ban Thường vụ Huyện ủy Thọ Xuân về việc đổi tên, chuyển thôn thành khu phố, sáp nhập để thành lập thôn, tổ dân phố tại xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Ủy ban nhân dân xã Nam Giang đã xây dựng Đề án sáp nhập thôn; Hội đồng nhân dân họp bất thường ra Nghị quyết thông qua Đề án sáp nhập thôn, từ 11 thôn còn 8 thôn, trong đó có 5 thôn giữ nguyên và 6 thôn thực hiện việc sáp nhập, cụ thể:

- Thôn Phúc Như và thôn Phú Gia sáp nhập thành thôn 4;

- Thôn Phong Lạc 1 và Phong Lạc 2 sáp nhập thành thôn 7;

- Thôn Phong Lạc 3 và Phong Lạc 4 sáp nhập thành thôn 8(1).

Sau khi tiến hành sáp nhập thôn, Đảng ủy cũng đã chỉ đạo tiến hành kiện toàn chi bộ, ban công tác mặt trận thôn, các chi hội đoàn thể theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy và các hội, đoàn thể huyện.

Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, cơ sở vật chất được nâng cấp, chất lượng khám và chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên, đội ngũ y tế thôn được củng cố và từng bước trẻ hóa. Năm 2018, đã thực hiện việc khám, chữa bệnh cho 5.473 lượt bệnh nhân. Tỷ lệ người tham gia Bảo hiểm y tế năm 2017 là 78%, năm 2018 đạt 84,6%. Công tác y tế dự phòng, đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng, toàn xã có 67,4% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước hợp vệ sinh là 99%; từng hộ chủ động thu gom và xử lý rác thải, hạn chế tốt nhất tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu dân cư.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình tiếp tục đạt kết quả tốt. Đội ngũ làm công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hằng năm 0,52%, đạt kế hoạch đặt ra.

Thực hiện chính sách an sinh xã hội đảm bảo đúng quy định. Lãnh đạo và chỉ đạo việc chi trả các chế độ chính sách cho các đối tượng đúng quy định của Nhà nước, không để xảy ra thắc mắc khiếu nại. Tập trung giải quyết tồn đọng về chính sách đối với người có công theo quy định của Nhà nước; thường xuyên thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các đối tượng chính sách và người có công nhân các ngày lễ tết; thực hiện tốt chính sách đối với hộ nghèo, cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2014 còn 4%, hộ cận nghèo 4,03%. Đến năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,72% (35 hộ); tỷ lệ hộ cận nghèo là 7,28% (148 hộ).

Công tác quốc phòng - an ninh: Hng năm, Đảng ủy có Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, nhiệm vụ tuyển quân. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, cng cố và xây dựng lực lượng quân dự bị động viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, sn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch huấn luyện quân sự nâng cao chất lượng trong huấn luyện; hng năm 100% số dân quân tự vệ đạt yêu cầu về huấn luyện, có trên 75% đạt khá giỏi. Địa phương cũng thực hiện tốt nhiệm vụ tuyển quân. Từ năm 2010 - 2018, có 91 thanh niên nhập ngũ, đạt 100% kế hoạch và hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự đối với huyện và cấp trên. Phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh làm tốt công tác bảo vệ an ninh thôn xóm, các ngày lễ tết, bảo vệ Đại hội và các dịp bầu cử của địa phương và đất nước.

Hằng năm, Đảng ủy đều ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác an ninh trật tự; tập trung chỉ đạo, lãnh đạo, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ an ninh trật tự, xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Ban công an tăng cường công tác tuần tra canh gác đảm bảo an ninh trật tự và an toàn giao thông, thường xuyên tổ chức diễn đàn công an lắng nghe ý kiến nhân dân, chỉ đạo tổ an ninh xã hộitổ an ninh trật tự tại các thôn để phối hợp gii quyết công việc những vụ việc xảy ra; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể nhất là phối hợp với Hội Cựu chiến binh thực hiện mô hình ba trên một để giáo dục, cảm hóa đối tượng. Duy trì và củng cố, tổ chức hoạt động có hiệu quả công tác an ninh trật tự của ban an ninh trật tự và 11 tổ an ninh trật tự ở 11 thôn, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân yên tâm phát triển kinh tế. Từ năm 2010 đến năm 2018, đã xảy ra 94 vụ việc, trong đó nổi lên là các vụ trộm cắp tài sản, tai nạn giao thông, đánh nhau gây mất trật tự công cộng...

Công tác tư pháp hoạt động có hiệu quả, góp phần vào nhiệm vụ ổn định chính trị - xã hội ở địa phương; thực hiện tốt công tác thẩm định văn bản pháp quy, không để sai sót về mặt văn bản của chính quyền; tham mưu cho chính quyền thực hiện đúng quy định về công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, công tác hòa giải ở 11 tổ hòa giải, công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Đảng ủy có nhiều đổi mới trong việc quán triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, của tỉnh và của huyện. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã được cấp ủy lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đúng nguyên tắc, phát huy tính tự giác, trung thực, khách quan, đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, tìm ra nguyên nhân và định hướng khắc phục. Hng năm, gắn việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình cuối năm với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong mỗi tập thể cấp ủy và cán bộ, đảng viên. Tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ và nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để giải quyết và ổn định tình hình địa phương.

Công tác tổ chức cán bộ luôn được cấp ủy xác định là khâu có tính chất quyết định để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tháng 6 năm 2018, đồng chí Nguyễn Thành Tua nghỉ chế độ hưu trí. Thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, tháng 10/2018, Ban Thường vụ đã điều chuyển đồng chí Lê Văn Minh giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy. Đồng thời điều động, chỉ định đồng chí Lê Văn Niệm - Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Nam Giang, giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy. Chỉ đạo Đảng ủy giới thiệu để Hội đồng nhân dân xã Nam Giang bầu đồng chí Lê Văn Niệm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

Đảng ủy thường xuyên quan tâm, phát hiện những đảng viên trẻ, quần chúng ưu tú có đủ phẩm chất, tư cách đạo đức đưa vào nguồn đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho địa phương, từng bước đã đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở địa phương. Đến năm 2018, trong 21 chức danh cán bộ, công chức cấp xã có 6 cán bộ, công chức có bằng đại học, 01 cao đẳng và 14 trung cấp chuyên nghiệp; 16 cán bộ, công chức có bằng trung cấp lý luận chính trị. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công chức của xã đảm bảo về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác trong giai đoạn hiện tại.

Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ nghiêm túc, đảm bảo có sự kế thừa 3 thế hệ, cán bộ nữ, cán bộ trẻ đúng tỷ lệ quy định. Hằng năm đều rà soát đưa ra khỏi diện quy hoạch số cán bộ đã hết tuổi, đưa vào quy hoạch những cán bộ trong độ tuổi; ưu tiên những đảng viên, cán bộ và quần chúng có đủ điều kiện vào quy hoạch để tiếp tục bồi dưỡng, bổ sung và đào tạo cho những nhiệm kỳ tiếp theo.

Hằng năm, Ban chấp hành Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ và nâng cao chất lượng đảng viên. Năm 2015, đảng bộ có 16 chi bộ, trong đó 11 chi bộ thôn, 3 chi bộ trường học, 1 chi bộ trạm y tế và 1 chi bộ hợp tác xã dịch vụ. Cuối năm 2018, sau khi thực hiện công tác sáp nhập thôn, Đảng ủy cũng đã kiện toàn lại các chi bộ. Từ 16 chi bộ giảm còn 13 chi bộ. Ban chấp hành Đảng bộ quy định các chi bộ sinh hoạt định kỳ hằng tháng vào ngày mồng 3; phân công đồng chí Đảng ủy viên phụ trách vòng 2 đến từng chi bộ, trực tiếp dự và chỉ đạo giải quyết những bức xúc, nổi cộm thuộc trách nhiệm ngay tại chi bộ. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 10-CT/TW về nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ. Việc sinh hoạt định kỳ của các chi bộ được duy trì đều đặn; nội dung sinh hoạt được đổi mới, vì vậy, chất lượng kỳ họp cũng như ý thức của mỗi đảng viên được nâng lên. Hằng năm chỉ đạo nghiêm túc việc kiểm điểm, phân loại, đánh giá chất lượng cơ sở Đảng đảng viên. Từ năm 2010 đến năm 2015, số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ đều đạt theo mục tiêu (trên 93%), không có chi bộ yếu kém. 94% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 2016, có 8/16 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 7/16 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 1/16 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2017, có 8/16 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 6/16 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, 2/16 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2018, có 5/13 chi bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 8/13 chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các chi bộ Cao Thượng, Cao Phong và trường Tiểu học được Đảng ủy khen thưởng.

Công tác quản lý đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm, công tác phát triển Đảng được chú trọng. Từ năm 2010 - 2018, đã giới thiệu, gửi đi học lớp bồi dưỡng lớp nhận thức về Đảng 105 quần chúng ưu tú; kết nạp được 66 đảng viên mới. Chất lượng đảng viên được nâng lên, đảm bảo tính kế thừa và phát triển.

Công tác kiểm tra, giám sát được được tăng cường. Đảng ủy đã triển khai Quy định 30-Q/Đ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về thi hành chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Từ năm 2010 đến năm 2018, đã kiểm tra 42 lượt chi bộ, tiến hành giám sát 13 chi bộ. Năm 2018 đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 01-CT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy; kiểm tra công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Quá trình kiểm tra đã xử lý 01 tập thể và 7 đảng viên vi phạm kỷ luật ở hình thức khiển trách.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể:

Mặt trận Tổ quốc xã đã tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tổ chức các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thành công, đúng luật, an toàn; tổ chức các hội nghị lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân bầu, phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tổ chức có hiệu quả hội nghị tiếp xúc cử tri, vận động quỹ “vì người nghèo”. Phát động và thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”. Hng năm đều chỉ đạo các thôn tổ chức hiệu quả, thiết thực ngày hội Đại đoàn kết vào dịp 18/11, tạo không khí vui tươi, phấn khởi và củng cố khối đại đoàn kết trong nhân dân.

Các tổ chức đoàn thể luôn bám sát chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để vận động đoàn viên, hội viên tham gia vận động có hiệu quả, nhất là cuộc vận động “Thọ Xuân chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”, cuộc vận động giúp nhau xoá đói giảm nghèo và các cuộc vận động quyên góp ủng hộ khác; đồng thời các đoàn thể cũng đã làm tốt các chương trình phối hợp khác như: ủy thác vay vốn ngân hàng, quản lý sản xuất, thu gom rác thải bảo vệ môi trường... Thường xuyên chú trọng nâng cao tỷ lệ tập hợp hội viên và xây dựng quỹ hội, tỷ lệ tập hợp đoàn viên thanh niên đạt 78%, Hội Phụ nữ tham gia sinh hoạt trên 75%, Hội Cựu chiến binh đạt 98,5%, Hội Nông dân đạt 72,6%, Công đoàn đạt 100%.

Các tổ chức hội nHội Người cao tuổi, Hội Khuyến học, hội Cựu Thanh niên xung phong, Trung tâm học tập cộng đồng, Hội Nạn nhân chất độc da cam, Hội Chữ thập đỏ... đã tổ chức và xây dựng kế hoạch hoạt động hằng năm, các hoạt động đều bám vào các nhiệm vụ chính trị của địa phương; tổ chức vận động hội viên và nhân dân thực hiện, gắn nội dung hoạt động lành mạnh và thiết thực trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện tốt các phong trào, thực sự động viên khuyến khích, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia.

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị thời kỳ 2010 - 2018, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, phối hợp chặt chẽ của MTTQ và các đoàn thể, sự phấn đấu nỗ lực vượt mọi khó khăn của nhân dân; với tinh thần đoàn kết một lòng, Nam Giang đã giành được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; Chính trị ổn định và giữ vững, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên và cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần, bộ mặt địa phương ngày càng đổi mới, đặc biệt là những kết quả trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Qua 6 năm thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đến hết tháng 10 năm 2016, địa phương đã đạt 19/19 tiêu chí. Hội đồng thẩm định xã đạt chuẩn nông thôn mới của huyện đã tổ chức hội nghị thẩm định và công nhận xã Nam Giang đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Tiếp đó, xã Nam Giang cũng đã được Đoàn thẩm định xã đạt chuẩn nông thôn mới tỉnh công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Ngày 01/11/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 4254, công nhận xã Nam Giang đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016. Ngày 19/11/2016, Đảng bộ và nhân dân xã Nam Giang đã long trọng tổ chức lễ đón nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Có thể nói, qua việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, bộ mặt của xã đã có nhiều thay đổi: Cơ sở hạ tầng thiết yếu được nâng cấp, hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, thu nhập và điều kiện sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Công tác xóa đói giảm nghèo, chính sách đền ơn đáp nghĩa được thực hiện tốt, giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới ngày càng được nhân dân hưởng ứng tích cực, cảnh quan môi trường được sạch đẹp, trật tự xã hội được đảm bảo, quy chế dân chủ được phát huy, hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, niềm tin của người dân vào các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền được nâng cao. Người dân tự thấy được và được thực hiện những hành động cụ thể đóng góp xây dựng quê hương mình.

Những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân Nam Giang xây dựng được trong thời gian qua là nền tảng, là động lực để Nam Giang tiếp tục phấn đấu xây dựng thành công xã nông thôn mới nâng cao, tiến tới xây dựng thành xã kiểu mẫu, góp phần xây dựng huyện kiểu mẫu, tỉnh kiểu mẫu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.


 

 

KẾT LUẬN

 

Nam Giang là trung tâm kinh tế - văn hóa của huyện Lôi Dương xưa, có nhiều di tích lịch sử văn hóa, như Văn chỉ, võ chỉ hàng huyện, Đình làng Phong Lạc, Đình làng Phúc Trạch, Đình làng Phúc Như…đặc biệt là Điện Càn Long, liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử, khoa bảng như Vua Lê Thần Tông, Vua lê Huyền Tông, Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu (Oanh), Phạm Thị Ngọc Huyền, hai anh em họ Phạm đỗ Hương cống, người anh làm Tham chính Nghệ An, người em giữ chức Viên Ngoại Lang bộ hình, cử nhân Phạm Tuấn, Phạm Lê Trừng tước hầu đốc trấn Lạng Sơn.

Thời Nguyễn các làng cổ của Nam Giang thuộc 3 tổng: Thượng Cốc, Bất Náo và Nam Dương (Nam Cai), hơn 90% thuần nông, nhân dân đoàn kết gắn bó keo sơn, giàu lòng yêu nước, có truyền thống cách mạng, truyền thống hiếu học. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi, nhiều người con của Nam Giang đã tham gia nghĩa quân chống Pháp.

Những năm đầu thế kỷ XX, sau khi người Pháp hoàn thành hệ thống thủy nông Bái Thượng và con đường bộ từ thị xã Thanh Hóa đi các huyện miền Tây thì các hoạt động giao thương đường thủy, đường bộ ở Nam Giang diễn ra rất sôi nổi “trên bến, dưới thuyền” và trở thành trung tâm kinh tế trong vùng. Nhưng dưới thời đế quốc, phong kiến người dân Nam Giang cơm không đủ no, áo không đủ mặc, sưu cao, thuế nặng, bắt phu, bắt lính cùng với những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan đẩy người dân ngày càng bần cùng hóa.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống đế quốc phong kiến, nhân dân Nam Giang một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia các tổ chức cách mạng như: Hội tương tế Ái hữu, Mặt trận phản đế cứu quốc, Mặt trận Việt Minh, xây dựng các tổ chức đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông hội. Từ đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế đến đấu tranh chính trị, đòi dân sinh dân chủ, chống bắt phu, bắt lính, chống áp bức cường quyền, thành lập lực lượng vũ tranh, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, cùng cả nước khởi nghĩa thành công giành chính quyền về tay nhân dân.

Đất nước vừa độc lập gặp phải muôn vàn khó khăn, quân Đồng minh kéo vào nước ta (miền Bắc quân Tầu Tưởng, miền Nam quân đội Anh). Thực dân Pháp núp bóng quân đồng minh hòng quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trong nước bọn phản động cấu kết với nước ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng. Nạn đói đầu năm 1945, có nguy cơ tái trở lại, ngân khố quốc gia trống rỗng… Đất nước lâm vào cảnh thù trong giặc ngoài, nền độc lập dân tộc ngàn cân treo sợi tóc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đẩy lùi nạn đói, củng cố xây dựng chính quyền, xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh, đấu tranh làm thất bại âm mưu của bọn phản động. Mở các lớp học xóa nạn mù chữ, xây dựng lực lượng dân quân du kích.

Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam Giang thực sự là hậu phương vững chắc của tiền tuyến, đóng góp tối đa sức người, sức của cho kháng chiến, kiên quốc. Thực hiện “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”, “Lúa nuôi quân”, mua “Công trái quốc gia”, “Công phiếu kháng chiến”,… Để đóng góp cho kháng chiến và nâng cao đời sống nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nam Giang tiến hành giảm tô triệt để và thực hiện chính sách thuế nông nghiệp. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều gia đình đã nhường nhà ở cho Nhà nước làm kho tàng, các cơ quan của tỉnh, của Liên khu sơ tán về, các đơn vị bộ đội về học tập chỉnh huấn, chỉnh quân, dân công dừng chân… Với tấm lòng nhân ái, thương người như thể thương thân, nhân dân Nam Giang đón tiếp hàng trăm gia đình tản cư từ ngoài Bắc vào, giúp đỡ nhà ở, đất đai giống má sản xuất, tạo mọi điều kiện để đồng bào sớm ổn định cuộc sống tham gia kháng chiến kiến quốc. Máy bay Pháp nhiều lần thả bom bắn phá vào địa bàn xã, làm chết và bị thương nhiều người dân, thiệt hại nhiều hoa màu, tài sản của nhân dân.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, lớp lớp thanh niên Nam Giang hăng hái lên đường đánh Mỹ, nhiều phong trào cách mạng ở địa phương đã góp phần đóng góp tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến như các phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, phong trào cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ đã khích lệ hàng trăm thanh niên Nam Giang lên đường đánh Mỹ: bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân công trường 101(làm sân bay Sao Vàng), công nhân giao thông vận tải, dân công hỏa tuyến…Có lúc lực lượng lao động sản xuất ở địa phương chỉ còn cụ già, đàn bà và em nhỏ; nhưng với tinh thần làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, vừa sản xuất vừa chiến đấu, dân quân Nam Giang kiên cường độc lập bắn rơi máy bay giặc Mỹ; phối hợp với các đơn vị bạn, bộ đội chủ lực chiến đấu bảo vệ an toàn các mục tiêu kinh tế, thủy lợi, quốc phòng - an ninh trên địa bàn. Máy bay giặc Mỹ cũng nhiều lần đánh phá vào địa bàn Nam Giang như Âu Phong Lạc, cầu Phúc Như…

Trong 10 năm kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975), Nam Giang có gần 700 thanh niên lên đường nhập ngũ, đóng góp cho Nhà nước và chi viện tiền tuyến 7.500 tấn thóc, 310.000kg thịt lơn lợn hơi, 107.000kg gia cầm, vài trăm tấn thực phẩm hàng nông sản, rau quả các loại.

Do có nhiều thành tích đóng góp xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, xã Nam Giang vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, do chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và sự chống phá của bọn phản động và các thế lực thù địch bên ngoài, nền kinh tế trong nước suy thoái trầm trọng, thiếu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; trong khi đó chiến tranh ở hai đầu biên giới Tây Nam và phía Bắc lại nổ ra, những người lính vừa rời quân ngũ, quần áo chưa phai hết mùi thuốc súng vội vã ra mặt trận, lớp lớp thanh niên Nam Giang lên đường bảo vệ biên cương Tổ quốc. Với cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, thiên tai, bão lụt, sâu bệnh, năng suất lúa không cao, bình quân lương thực đầu người từ 100 kg đến 120 kg/năm, thực phẩm và hàng tiêu dùng vô cùng khan hiếm, các thế lực bên ngoài luôn luôn tìm cách quấy phá…

Trong những năm khó khăn gian khổ ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Nam Giang lại tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, hoàn thành các chỉ tiêu lương thực, thực phẩm và tuyển quân hằng năm Nhà nước giao.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới kết hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới, Nam Giang tiến hành quy hoạch đất đai, chuyển đổi mô hình quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khai thác tiềm năng sẵn có, tranh thủ nguồn vốn hổ trợ của huyện, của tỉnh, nguồn lực bên ngoài cùng nguồn vốn nhân dân đóng góp, Nam Giang đã hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng cơ sở như đường điện dân sinh, điện dịch vụ, hệ thống đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, kiên cố hóa kênh mương. Hệ thống giáo dục ba cấp trường: Trường mầm non, Trường tiểu học, Trường Trung học Phổ thông Cơ sở đều đạt chuẩn Quốc gia; Trạm Y tế xã được xây dựng khang trang, dụng cụ vật tư y tế đạt tiêu chuẩn của một trạm y tế cấp xã. Hệ thống nhà văn hóa thôn, Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ, Hội trường công sở xã…với số vốn hơn một trăm tỷ đồng, nguồn vốn được giải ngân, không nợ đọng.

Năm 2016, Nam Giang hoàn thành các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới. Ngày 01 tháng 11 năm 2016, được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa ký Quyết định số 4254/QĐ-UBND công nhận Nam Giang là xã đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.

Đã tròn 65 năm thành lập xã, 65 năm thành lập chi bộ, nay là Đảng bộ, theo dòng chảy của lịch sử có lúc thăng trầm, khó khăn, Đảng bộ và nhân dân Nam Giang tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bình tĩnh tháo gỡ khó khăn, vững bước trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới đã đạt được nhiều thành tựu đáng trân trọng.

Từ thực tế của địa phương và những thành tích đã đạt được, Ban chấp hành Đảng bộ nghiêm túc đúc kết ra mấy bài học kinh nghiệm đồng thời định hướng mục tiêu, phương hướng để phấn đấu trong những năm tới như sau:

Một là: giữ vững khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, đặc biệt là vai trò tiền phong gương mẫu, nêu gương của lãnh đạo chủ chốt và các cấp ủy Đảng trước các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên trên cơ sở thực hiện quy chế dân chủ và pháp luật của Nhà nước, coi trọng công tác xây dựng Đảng cả về số lượng và chất lượng, hướng tới mục tiêu xây dựng các chi bộ đảng trong sạch vững mạnh toàn diện; gắn công tác xây dựng đảng với chính trị - tư tưởng và tổ chức.

Hai là: Phát huy cao độ truyền thống tương thân, tương ái, yêu nước thương nòi, truyền thống anh hùng cách mạng của địa phương, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào tình hình cụ thể ở từng giai đoạn và công việc cụ thể; có giải pháp khả thi tích cực và hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương.

Ba là: coi trọng công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; thường xuyên chăm lo củng cố đội ngũ trưởng thôn, trưởng làng có đầy đủ trách nhiệm, uy tín trước nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài, để nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu tạo ra sự đồng thuận tuyệt đối trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng và chính quyền địa phương.

Bốn là: luôn chủ động khai thác tiềm năng, thế mạnh vốn có của địa phương, tranh thủ ngoại lực và sự giúp đỡ của cấp trên; con em của quê hương Nam Giang đang sống xa quê. Công khai, minh bạch hóa các dự án đầu tư, các hoạt động thu chi ngân sách địa phương theo Pháp luật hiện hành. Cổ vũ, động viên kịp thời các tài năng, các tấm lòng hảo tâm với quê hương Nam Giang trong tiến trình xây dựng và phát triển, đặc biệt là thời kỳ xây dựng nông thôn mới nâng cao, tiến tới xây dựng địa phương kiểu mẫu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn về quê hương Thanh Hóa.

Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Nam Giang đạt được trong thời gian qua là một sự nỗ lực cố gắng, nhưng nhìn về phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Nam Giang cần phải nỗ lực hơn nữa để hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới nâng cao ngày một giàu đẹp, xứng đáng với quê hương có truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng đô thị mới trong tương lai.

 


 



([1]). Để người đọc dễ nắm bắt nội dung, mọi chi tiết sự kiện lịch sử diễn ra ở các làng, khu phố mà nay thuộc xã Nam Giang, chúng tôi ghi chung là Nam Giang.

([2]). Báo Ominion (Dư luận), số 8 năm 1914.

([3]). Sưu (thuế thân): Từ 18 đến 60 tuổi mỗi năm đóng 2 đồng 5 hào; ngoài ra người nông dân còn phải đóng thuế điền sản, thổ cư, ao đầm…

([4]). Đồng chí Lê Hữu Lập người xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, là người được Bác Hồ trực tiếp bồi dưỡng kết nạp vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Trung Quốc. Năm 1925, được cử về nước hoạt động.

([5]). Những sự kiện lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân (1926 - 1945).

([6]). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân, tập 1, (1930 - 1945). Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Xuất bản năm 2000.

([7]). Dẫn theo Lịch sử làng văn hóa Cao Phong.

([8]). Tính theo địa danh huyện Thọ Xuân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

([9]). Từ đây những sự kiện diễn ra ở các làng Kim Bảng, Cao Phong, Phúc Như, Phú Gia, Phong Lạc, Phúc Trạch Thượng, Phúc Trạch Hạ gọi là Nam Giang.

([10]). Lịch sử Việt Nam, tập 2, trang 334.

([11]). Báo “Đuổi giặc nước”, số 12, ngày 13 tháng 11 năm 1944.

(1). Do chính sách cai trị và bóc lột của phát xít Nhật làm cho người dân Việt Nam nói chung, tỉnh Thanh Hóa, huyện Thọ Xuân ta nói riêng lâm vào cảnh bần cùng hóa, năm 1945, người đói phải đi ăn mày diễn ra khắp nơi (chủ yếu là tập trung ở các chơ). Có thể nói thời kỳ này ở khu vực chợ Neo người chết đói có thể gọi là biểu tượng của nạn đói của năm 1945 ở Thọ Xuân thời bấy giờ. Những người chết đói được nhân dân đem chôn ở Bãi Cồn Hà (thuộc Phú Gia ngày nay).

([12]). Đại hội họp tại đình làng Canh Hoạch, xã Minh Nghĩa, nay thuộc xã Xuân Lai. Đại hội II bầu 18 ủy viên chấp hành, đồng chí Phạm Huy Kinh được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

(1). Căn cứ vào giấy giới thiệu ngày 19 tháng 9 năm 1953, của UBKC-HC huyện Thọ Xuân, giới thiệu 2 đồng chí Lê Đình Khánh và Lê Đình Toát thuộc chi bộ Nam Giang, là cán bộ kiểm tra của huyện Thọ Xuân về xã Thọ Ngọc dự kiểm tra thu thuế nông nghiệp vụ chiêm năm 1953 và truy thu thuế năm 1952.

(1). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân (1930-1975), tập I, tr 276, xuất bản năm 2000.

(1). Trong kháng chiến chống Pháp, việc tòng quân được thực hiện theo chế độ tình nguyện, nay Chính phủ thay bằng chế độ nghĩa vụ quân sự. Tháng 4/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 11/SL- Ban hành Luật nghĩa vụ quân sự.

(1). Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân, tập I (1930- 1975), Sđđ, Tr 295.

([13]). Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3/1964) - Thanh Hóa - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) - Bộ CHQS Thanh Hóa - xuất bản năm 1994, tr 43.

([14]). Thanh Hóa - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… Sđđ, tr 44.

(1). Tháng 4/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban hành Luật nghĩa vụ quân sự thời chiến, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu nhiệm vụ chiến tranh. Các sĩ quan, quân nhân phục viên xuất ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự ban hành trước đây được gọi trở lại quân đội.

(1). Trận địa bảo vệ cầu Phúc Như lúc đầu giao cho dân quân xã Nam Giang đảm nhận; khi cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ xảy ra ác liệt, huyện điều 1 tiểu đội dân quân của Bắc Lương tăng cường phối hợp, thay phiên nhau trực chiến sẵn sàng đánh máy bay địch. Ngày 9/9/1967, tổ trực chiến hôm đó có 10 đồng chí (7 dân quân của xã Nam Giang và 4 dân quân xã Bắc Lương) đã bắn rơi 1 máy bay địch.

([15]). Sáng ngày 10/19/1967, Bộ Tư Lệnh Quân khu Hữu Ngạn thông báo vị trí chiếc máy bay bị bắn rơi.

([16]). Lịch sử Lực lượng Vũ trang nhân dân Thọ Xuân, trang 142, Nxb Thanh Hóa, năm 2006.

(1). Ba sẵn sàng: - Sẵn sàng chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập quân đội;

- Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào;

- Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần.

([17]). Ba đảm đang: - Đảm đang sản xuất thay thế chồng con đi chiến đấu;

- Đảm đang gia đình để chồng con đi chiến đấu;

- Đảm đang công tác xã hội và phục vụ chiến đấu khi cần.

(1). Hoàng Ngọc Chương sinh năm 1936, lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, được gia đình, nhà trường và cách mạng giáo dục, khi còn ở địa phương, anh đã hăng hái tham gia các hoạt động của đoàn thể thiếu niên, thanh niên, rồi vào dân quân, vào đội xung kích đắp đê chống lụt và nhiều lần được cấp trên khen thưởng.

Tháng 3 năm 1963, anh lên đường nhập ngũ, ngay từ những ngày đầu đứng trong hàng ngũ QĐND Việt Nam, anh đã tích cực học tập, rèn luyện, gương mẫu trong mọi mặt công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Tháng 1 năm 1965, đơn vị được lệnh sang Lào chiến đấu giúp bạn, anh rất phấn khởi, hăng hái chuẩn bị và động viên giúp đỡ những người khác nhanh chóng ổn định mọi mặt để đơn vị sớm lên đường làm nhiệm vụ.

Tại chiến trường Lào, Hoàng Ngọc Chương đã tham gia chiến đấu 33 trận, luôn nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần cùng đơn vị lập công xuất sắc.

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, đơn vị hành quân suốt đêm đến 8 giờ sáng mới tới vị trí tập kết, thì ngay chiều hôm đó 47 máy bay giặc Mỹ tới oanh tạc vào đội hình trú quân của đơn vị. Từ phút đầu, anh đã có mặt ở vị trí chiến đấu, cùng với khẩu đội bắn rơi tại chỗ 1 chiếc máy bay F101 khi chúng vừa bổ nhào cắt bom. Cay cú vì bị bắn hạ, máy bay Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục bắn phá, làm cho cả khẩu đội bị thương vong, còn một mình nhưng Hoàng Ngọc Chương vẫn không rời vị trí, đảm nhiệm thay thế tất cả các số tiếp tục chiến đấu. Khi súng bị hỏng và được lệnh cấp trên rời khỏi xe, anh lại xung phong đi cáng thương binh, cứu xe bị cháy, rồi lại xin tham gia khẩu đội khác tiếp tục chiến đấu, góp phần xứng đáng vào chiến công chung của đơn vị hôm đó, bắn rơi 9 máy bay giặc Mỹ.

4 giờ sáng ngày 15 tháng 6 năm 1965, 12 chiếc máy bay địch từ nhiều hướng lao tới đánh phá khu vực Na Cay, nơi trú quân của đơn vị. Hai quả bom rơi trúng trận địa làm một số anh em bị thương vong. Tuy súng và người bị đất vùi, Hoàng Ngọc Chương vẫn bình tĩnh bới đất nhanh chóng sửa chữa súng và tiếp tục chiến đấu, góp phần cùng đơn vị bắn rơi 3 máy bay địch.

Trong trận ngày 22 tháng 6 năm 1965, cả đại đội chỉ còn 3 khẩu súng và số người trực tiếp chiến đấu lại thiếu. Đồng chí đề nghị cả y tá và quân khí viên cùng tham gia chiến đấu để sử dụng và phát huy hết hỏa lực của đơn vị. Ngay từ sáng, 16 máy bay địch đã tới đánh phá, 24 quả bom rơi vào trận địa, có quả nổ cách khẩu đội của anh chừng 15 mét, súng bị hóc cả 2 nòng, anh đã cùng đồng đội bình tĩnh sữa chữa, mới chữa được một nòng thì máy bay địch lại lao xuống đánh phá, anh kịp thời lấy hướng, cự ly cho khẩu đội bắn, sau đó lại sữa tiếp nòng thứ hai rồi tiếp tục chiến đấu cùng đơn vị bắn rơi 3 máy bay giặc Mỹ.

Trong chiến đấu cũng như trong mọi mặt công tác, anh luôn gương mẫu nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, nêu cao ý thức tổ chức, giữ nghiêm kỹ luật, khiêm tốn, đoàn kết, được đồng đội tin yêu.

Hoàng Ngọc Chương đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Bằng khen và Giấy khen, là chiến sĩ thi đua năm 1965.

Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Hoàng Ngọc Chương được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (khi được tuyên dương anh hùng anh mới là Hạ sĩ, trung đội phó súng cao xạ 14,5 milimét, thuộc Đại đội 48, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam).

* Trên đây là tóm tắt thành tích được trích trong cuốn đơn vị, cá nhân anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân tỉnh Thanh Hóa - Bộ CHQS Thanh Hóa, xuất bản năm 1995, trang 90-93.

(1). Nhưng việc lấy tên thôn theo số 4, 7, 8 chưa được đông đảo nhân dân chấp nhận, Đảng ủy, HĐND, UBND đã có tờ trình đề nghị lấy lại tên làng cũ theo nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân: Phú Gia, Phúc Như đặt là Phúc Gia, thôn Phong Lạc 1, Phong Lạc 2 lấy tên là Phong Lạc 1; Phong Lạc 3, Phong Lạc 4 lấy tên là Phong Lạc 2. 
Từ khóa bài viết:

Thủ tục hành chính

Địa chỉ tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về giải quyết TTHC
Địa chỉ: UBND Xã Nam Giang, Phố Neo, Xã Nam Giang, Huyện Thọ Xuân
SĐT: 02373884568
Email: hoavpnamgiang@gmail.com